Hiển thị các bài đăng có nhãn Tháng Cầu Hồn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tháng Cầu Hồn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM


BÀI ĐỌC I : 2 Mcb 7, 1.20-23.27b-29

1 Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.20 Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con:22 "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."27b Bà nói với người con út : "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu.28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."

ĐÁP CA : Tv 125

Đ. 5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
1 Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. 2ab Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
2cd Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: "Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay! " 3 Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.

BÀI ĐỌC 2 : Rm 8,31b-39

31b Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?36 Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.37 Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

TUNG HÔ TIN MỪNG : Mt 5,10
Hall-Hall : Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Hall.

TIN MỪNG : Lc 9,23-26

Khi ấy, 23 Đức Giê-su nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.

CHỨNG NHÂN TIN MỪNG

Ngày khai sinh Giáo Hội Việt Nam vinh dự không kém ngày Sinh Nhật của Giáo Hội Mẹ Roma, vì cả hai đều được sinh ra trong máu của người tin Chúa Giêsu suốt 300 năm. Ở Việt Nam, cuộc bách hại bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, và khốc liệt nhất vào thế kỷ thứ 19.

Ngày 19/06/1988, Đức Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho 117 vị, trong số 130.000 người Tử Đạo tại Việt Nam, gồm có :

8 Giám mục ; 50 Linh mục ; 14 thầy giảng ; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có 10 vị người Pháp, 11 vị người Tân Ban Nha, còn lại là người Việt.

Các Thánh trên đã Tử Đạo bởi 5 triều đại vua sau đây:
ò Trịnh Nguyễn (1745-1773) : 4 vị.
ò Cảnh Thịnh (1798) : 2 vị.
ò Minh Mạng (1820-1840) : 50 vị.
ò Thiệu Trị (1841-1847) : 3 vị.
ò Tự Đức (1848-1883) : 58 vị.
Các ngài chịu đủ mọi cực hình :

Bá đao (mỗi người bị cắt 100 miếng thịt) : 1 vị.
Lăng trì (chặt chân tay trước khi chém đầu) : 4 vị.
Thiêu sống : 6 vị.
Chém đầu : 75 vị.
Xử giảo (quấn dây vòng cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết : 22 vị.
Rũ tù : 9 vị.
Người cao tuổi nhất như cha Loan 84 tuổi ; trẻ nhất như Tôma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử Đạo chỉ có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành (thánh Đê.)

Các vị trên đủ mọi thành phần trong Đạo-đời, quan có, lính có, dân có ; nhưng đa số là giáo sĩ trong Hội Thánh : Giám mục, Linh mục, chủng sinh. Số người trẻ từ 18 đến 40 tuổi chiếm 1/3 trong 117 vị Tử Đạo.

Ngày 15/10/1989, Hội Đồng Giám mục Việt Nam xin Tòa Thánh ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới : ngày 24/11 là ngày kính Các Thánh Tử Đạo, nhằm kỷ niệm ngày thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1958, và được Bộ Phượng Tự chấp thuận ngày 14/02/1990, và đặc biệt được kính trọng thể vào Chúa nhật 33, áp Chúa nhật 34, lễ Chúa Kitô Vua, với hàm ý : 117 vị thánh Tử Đạo tại VN đã phần nào diễn tả chiến thắng của Vua vũ trụ.

VINH QUANG CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO Ở ĐIỂM NÀO?

Thực ra, tổ chức nào, tôn giáo nào cũng có những anh hùng, họ đâu trông cậy vào ơn Chúa giúp. Đan cử
Anh Nguyễn văn Trỗi dám liều mạng ám sát Đại sứ Hoa Kỳ tại cầu Công Lý Saigon. Anh đã được Đảng Cộng sản VN tôn vinh là anh hùng dân tộc.
Thượng tọa Thích Quảng Đức phản đối chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bằng việc tự thiêu, nên được Phật Giáo tôn vinh như Phật sống.

Đối với các thánh Tử Đạo, giá trị của các ngài hệ tại ở chỗ minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, chỉ vì :

I/ TIN VÀO GIÁ TRỊ PHỤC SINH. Niềm tin này đã được mạc khải trong sách Macabê : Bà mẹ động viên bảy người con đừng sợ những khổ hình do vua Antiokho ra lệnh dùng roi và gân bò đánh cho chết, nếu không ăn thịt heo! Bà nói : “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình." (2Mcb7,1.20-23: Bài đọc I).

II/ TIN VÀO ĐỨC GIÊSU LÀ CON MỘT THIÊN CHÚA CHA BAN TẶNG ĐỂ CỨU THẾ GIAN, ngoài Ngài không có thần thánh nào biến dữ ra lành cho con người để sống hạnh phúc dồi dào muôn đời (x Cv 4,12). Thánh Phaolô nói : “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban cho chúng ta tất cả làm một với Ngài? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính ? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?

Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Bởi thế không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,31b-39 : Bài đọc II).

III/ ĐỨC TIN, ĐỨC MẾN CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI THỂ HIỆN BẰNG VIỆC LÀM. Đức Giêsu dạy : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24 : Tin Mừng). Khi Đức Giêsu vác thánh giá chính là lúc Ngài dâng Lễ, nên Ngài dạy : “Ai muốn theo tôi, thì hãy vác thập giá của mình hằng ngày mà theo”, có nghĩa là hằng ngày ta phải đấu tranh với mọi nghịch cảnh, để có giờ cùng hiệp dâng Thánh Lễ với Ngài. Có thế mới cứu được mạng sống mình, và như vậy đi dự Lễ càng phải trả giá đắt, đến nỗi mất mạng như các thánh Tử Đạo, càng bày tỏ lòng mến cao, thì càng được nhiều ơn. Đấy mới thực là ý nghĩa và giá trị Chúa dạy ta phải vác thập giá mình mà theo Ngài mỗi ngày, chứ không phải là Ngài nhắm dạy ta : Phải chịu khó làm việcbổn phận thì thu tích được nhiều tiền của ! Nếu ta chỉ chú ý cần cù làm việc để đạt thành công trong xã hội, đó chỉ là nhân bản, chẳng cần đến Chúa nào dạy, người vô thần họ vẫn dạy nhau : “Tất cả cho sản xuất để được giàu mạnh”, và chứng minh được “lao động là vinh quang”, nhưng vẫn thua kiếp trâu ngựa! Người Công Giáo dựa trên Đức Tin, ai cũng phải xác tín rằng : Dù có cần cù chịu khó làm việc, đạt thành công đời này, mà không kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, thì phải nhớ Lời Chúa Giêsu dạy : “Được lời cả thế gian mà mất sự sống mình thì nào có ích gì” (Lc 9,25 : Tin Mừng).

Nhờ kết hợp nên một với Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta sẽ được:

1- Chúa Giêsu Phục Sinh thanh tẩy tâm hồn ta. Thánh Gioan đã nhìn thấy thị kiến về sự chiến thắng của những người đã chết để làm chứng cho Tin Mừng : “Một đoàn người đông vô kể thuộc mọi dân, mọi ngôn ngữ. Họ trải qua thử thách lớn lao, họ giặt và tẩy sạch áo mình trong Máu Con Chiên, không còn đói khát, không bị nắng thiêu đốt, chính Con Chiên dẫn họ tới nguồn nước trường sinh, họ mặc áo trắng, tay cầm cành lá thiên tuế tung hô : “Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, xin chúc tụng vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh đến muôn đời” (Kh 7,9-17).

Ngài cộng tác trong mọi việc lành ta làm, có thế mới tôn vinh Thiên Chúa (x Rm 11,36). Bởi vì mọi việc con người làm ngoài Chúa Giêsu, trước sau sẽ ra tro bụi, nhưng nếu được làm trong Chúa Giêsu, thì việc ấy có giá trị cứu độ, và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu không ai có thể cướp mất! (x Cv 5,38-39) Chính vì vậy mà Đức Giêsu khẳng định : “Ngoài Ta, các ngươi không thể làm được việc gì” (Ga 15,5b)
Ngài ban cho chúng ta nghị lực đối đầu với nghịch cảnh để làm chứng cho Ngài, đến nỗi:

Vua Duy Tân hỏi các quan :

Tay dơ lấy gì rửa?
Thưa lấy nước rửa.
Nước dơ lấy gì rửa?

Không ai đáp. Vua nói tiếp :
Lấy máu rửa nước Việt Nam.
Nhưng đối với các thánh Tử Đạo không vì lời ấy mà làm cho các ngài hoảng sợ đến chối bỏ Đức Tin, bởi vì :

Kẻ nhút nhát thì sợ thần chết!
Đứa tuyệt vọng thì tìm cái chết!
Tên hưởng thụ thì chẳng nghĩ chết!
Người anh hùng thì liều mạng chết!
Đấng Khôn Ngoan thì chuẩn bị chết!

Chuẩn bị chết cụ thể là :

a. Bằng lòng mất hết lợi nhuận đời này, như người mẹ động viên đứa con út trong bảy người con sắp lãnh án tử chỉ vì muốn trung thành với Giáo Lý của Chúa : “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ." (2Mcb 7,27-29 : Bài đọc I).

b. Bằng lòng mất mạng để giữ vững Đức Tin, sau này Chúa trả lại vẹn toàn thân xác bất tử, như Lời Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ : “Ai từ bỏ mọi sự mà theo Ta sẽ được lãnh gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh chị em, cha mẹ và con cái cùng ruộng vườn, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sau hết” (Mc 10,30).

c. Bằng lòng mất đạo hiếu với cha mẹ trần thế vì phải hiếu với Cha trên trời, tức là kiên trì bảo vệ Chân Lý. Đan cử : Vua Saolê đã hứa truyền ngôi cho con trai là Gionathan, thế nhưng Gionathan thấy vua cha tìm mưu tính kế để diệt Đavid, chỉ vì Đavid được toàn dân tung hô : ông mạnh gấp mười vua Saolê, ông thành công trên mọi chiến trường để bảo vệ bình an cho dân tộc và giữ vững vương quyền Saolê, nên Gionathan tìm hết cách để Đavid khỏi sa vào lưới vua cha. Ông sống như thế chắc chắn bị người đời kết án là bất hiếu. Vì “ăn cây nào rào cây đó”, và “một giọt máu đào hơn ao nước lã” (x 1Sm 20).

Vì thế mà Đức Giêsu nói : “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).

Để minh chứng nhờ Chúa Giêsu ban nghị lực cho những ai tuyên xưng Ngài mà bị bách hại, thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, đã viết thư gởi các chủng sinh Chủng Viện Kẻ Vĩnh :

“Tôi là Phaolô, đang bị xiềng xích vì Đức Kitô. Tôi muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.

Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của Hỏa ngục đời đời : ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục tĩu, những sự gây gổ, những hành vi xấu xa, những lời thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận rệp.

Nhưng Đấng đã giải thoát ba người thanh niên ngọn lửa bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi ; Người cũng giải thoát tôi khỏi những sự khốn khó này bằng cách làm cho trở nên ngọt ngào : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.

Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Kitô ở cùng tôi. Người là Thầy của chúng ta, Người mang tất cả sức mạnh của thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất. Người không chỉ nhìn tôi chiến đấu, mà chính Người đang chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, triều thiên vinh quang đã được đặt trên đầu Người, nhưng chi thể cũng được hân hoan vì vinh quang của Đầu”.

Ông Pascal nói : “Vũ trụ có khả năng đè bẹp tôi, nhưng tôi vẫn hơn vũ trụ, vì vũ trụ không biết gì về chiến thắng của nó, còn tôi, tôi biết về sự chết của mình”.

Tác giả sách Khôn ngoan nói : “Nhìn thấy các vị Tử Đạo chịu khổ hình như thế, bọn ngu si coi họ như đã chết, cho là gặp tai họa, bị tiêu diệt, nhưng thực ra họ đang hưởng bình an, chứa chan hy vọng, trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ được hưởng ân huệ lớn lao, họ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy, họ có quyền xét xử muôn dân, thống trị muôn nước” (Kn 3,2-8a).

Nhưng “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126/125,5 : Đáp ca).

THUỘC LÒNG

Ông Tertuliano nói : “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”. Vì “người ta càng áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đảo bành trướng ra, khiến thiên hạ phải run khiếp” (Xh 1,12)

ĐỌC THÊM :

TRÍCH BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM

TẠI RÔMA NGÀY 19/06/1988

“Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Kitô Tử Nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các Vị Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống đức tin Chúa Kitô.

Làm sao kể lại cho hết ? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ nữ là thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.

Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc !

Để lấy một ví dụ : Trong các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiên phong có thánh Vinh-sơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1773. rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.

Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa. “Những người chết vì đức tin, ngài nói – thì lên Thiên đàng thẳng rẵng ; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền ; thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo cho phải hơn không ?” Thực ra vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21/12/1839.

Một lần nữa, hỡi Giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng : máu Các Thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong Đức Tin. Giữa anh em, Đức Tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.

Đức Tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.

Ai là người tín hữu đều ý thức rằng : Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia. (x 1Pr 2,13-17)

Do đó công ích của quốc gia vẫn là thời điểm người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng Chân Lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín ngưỡng : và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân.”

(Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)

http://phaolomoi.net

Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH





Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

Chúa Nhật Tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm C


PHÚC ÂM: Lc 19, 1-10 
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.

Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi".

Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất". Đó là lời Chúa.
 
CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27

Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:

1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.

2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

St. Martin de Porres




“Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và tôi sẽ thoa bóp chân cho anh.”
Đó là lời phát ra từ cửa miệng thánh Martinô Porres nói với một bệnh nhân đang giận dữ với ngài.
NGÀY 3-11: MỪNG LỄ THÁNH MARINÔ PORRES (1579-1639), VỊ TU SĨ DA MẦU DÒNG ĐAMINH, MẪU GƯƠNG SÁNG CHÓI NHẤT CỦA ĐỨC BÁC ÁI.
Sinh tại thành Lima, nước Pêru, cha là một hiệp sĩ người Tây Ban Nha và mẹ là một nô lệ da đen Panama. Thoạt tiên, cha đã bỏ mặc Martinô, mẹ cùng người em gái mà chẳng cung cấp gì, để họ đã phải sống cực khổ.
Rồi Martinô lớn lên, trở thành người rất đạo hạnh và tốt lành. Khi 12 tuổi, cậu được gởi tới học nghề kinh doanh với một thợ hớt tóc, cũng học biết cách chữa nhiều thứ bệnh. Sau cùng, cha của Martinô cũng quyết định chu cấp cho con trai mình ăn học. Tuy nhiên, Martinô lại dâng mình phụng sự Thiên Chúa trong hội dòng Đa Minh. Thầy Martinô Porres chẳng bao lâu đã chứng tỏ là một tu sĩ tuyệt vời. Không ai tốt lành, thánh thiện và vâng phục hơn thầy Martinô!
Thầy đã phục vụ các anh em đồng tu với nghề hớt tóc và y tế, lãnh trách nhiệm phân phát thức ăn cho những người nghèo khổ đến xin của bố thí trước cổng nhà dòng, thiết lập một trại mồ côi và một bệnh viện, và đã săn sóc những người đau yếu trong thành phố Lima. Chẳng mấy chốc, Martinô Porres trở nên nổi tiếng về lòng bác ái đối với những người nghèo khổ và đau bệnh. Mọi người trong thành Lima ngưỡng mộ thầy vì đời sống thánh thiện, đều tìm đến với thầy mỗi khi đau yếu. Thầy yêu mến tất cả mọi người như những anh chị em trong Chúa Kitô. Người ta đã tặng những số tiền lớn cho vị tu sĩ đáng yêu và tốt lành này để thầy làm những công việc từ thiện. Họ nhận thấy Martinô Porres tổ chức những công việc bác ái thật tốt đẹp.
Thậm chí cả đến những con vật cũng được vị thánh có tấm lòng vàng này quan tâm săn sóc. Thầy có lần xin lỗi một đàn chuột tới kiếm thức ăn: “Thật tội nghiệp! Những chú chuột bé bỏng nghèo hèn này không đủ ăn!” Trong căn nhà của cô em gái mình, Martinô Porres đã giữ một “chỗ dành cho những chú chó và những chú mèo lang thang.”
Dù được nổi danh ở Lima, thầy vẫn luôn luôn sống rất khiêm tốn. Thực sự, thầy tự gọi mình bằng danh xưng “thầy chổi cùn.” Sau khi qua đời ngày 3-11-1639, các giám mục và các quý tộc trong thành Lima đã tới đưa xác vị thánh đáng yêu về nơi an nghỉ cuối cùng, và không ngớt tôn vinh một tu sĩ khiêm tốn và thánh thiện.
Trong buổi lễ phong thánh (6-5-1962), Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã có lời nhận xét về Thánh Martino Porres như sau: “Ngài đã tha thứ lỗi lầm của người khác. Ngài đã quên đi những xúc phạm thật cay đắng, vì cho rằng ngài đáng phải phạt vì những tội lỗi của chính mình. Ngài cố gắng hết sức để đền bù các lỗi lầm ấy; ngài an ủi bệnh nhân một cách trìu mến; ngài cung cấp thực phẩm, quần áo và thuốc men cho người nghèo; ngài giúp đỡ các nông dân và người da đen, cũng như những người mang hai dòng máu mà thời ấy thường coi là nô lệ: do đó ngài xứng đáng với cái tên mà người ta thường gọi là ‘Martin Nhân Hậu.’”
Cha trên trời của chúng ta không phân biệt hay ưu tiên những người da trắng hoặc da mầu, mà Người nhìn thấu tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nài xin thánh Martinô Porres ban cho chúng ta lòng yêu mến tha nhân của ngài. Thánh nhân sẽ giúp chúng ta nhận thấy hết thảy mọi người thuộc mọi sắc tộc, mọi quốc gia và mọi tôn giáo đều là con cái Thiên Chúa.



03/11 – Thứ bảy đầu tháng - tuần 30 TN. Thánh Martinô Porres, tu sĩ


"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Thánh Martinô De Porrès, Tu Sĩ (1569-1639)

Martinô là kết quả của một cuộc hôn nhân không chính thức, vì thế ngay từ nhỏ, ngài đã bị mang tiếng xấu là đứa con ngoại tình. Thuộc hàng nô lệ da đen, nhưng ngài chọn ngay sự xấu xa, hèn hạ này để tiến đức.

Năm 22 tuổi, Martinô vào dòng Ða Minh với tư cách người giúp việc. Nhưng Bề Trên nhà dòng thấy ngài có nhiều nhân đức nổi bật nên đã chọn làm trợ sĩ và đã được khấn trọn đời. Từ đó, ngài chuyên lo giúp đỡ người nghèo khó, ốm đau, nhất là hạng người nô lệ da đen. Ngài cũng giúp họ nhận biết rằng tất cả mọi người bình đẳng trước nhan thánh Người.

Martinô ngay từ nhỏ đã được nhiều ơn đặc biệt như nói tiên tri, làm phép lạ, ngất trí. Ðằng khác, ngài còn có trí thông minh khác thường.

Sau những ngày phục vụ Chúa qua những người sống chung quanh, ngài đã yên nghỉ trong Chúa.

Năm 1836, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô XVI đã phong ngài hàng Chân Phước và Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII tôn lên bậc Hiển Thánh năm 1962.


LỜI CHÚA: Lc 14, 1. 7-11
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:

"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.

"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

SUY NIỆM 1: Bài Học Khiêm Nhường
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.

Thật thế, theo Tin Mừng thuật lại, hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.

Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.

Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.

Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Con Ðường Khiêm Hạ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống khiêm tốn. Lấy câu chuyện chỗ ngồi trong bàn tiệc như một bài dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta tín hữu Kitô điều thâm sâu trong đạo: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Với châm ngôn này, Chúa Giêsu muốn đặt con người ra trước mặt Thiên Chúa. Thật thế, tất cả phẩm giá con người có được đều bởi Thiên Chúa mà ra. Từ sự sống thể lý đến các phẩm tính tinh thần, từ giá trị cho đến những thành đạt trong cuộc sống và nhất là những nhân đức con người tôi luyện được. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Nhân câu chuyện ngồi trong bàn tiệc mà thực khách hầu hết là những người biệt phái, vốn hám danh và tự mãn, Chúa Giêsu hẳn muốn nhắc đến thói giả nhân giả nghĩa và kiêu ngạo của họ. Với những thực hành tôn giáo như ăn chay, cầu nguyện, bố thí mà họ chuyên cần thực thi, những người biệt phái dễ lên mặt khinh thị những thành phần thấp hèn trong xã hội. Chúa Giêsu đưa họ trở về với chân lý của con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi biết nhận ra giá trị đích thực của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Và nhận ra giá trị của mình cũng có thể là nhận ra sự hư không và thân phận hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Ðây chính là tâm tình cơ bản của Mẹ Maria. Chính khi nhận ra mình là người tôi tớ trước mặt Thiên Chúa mà Mẹ đã nên cao trọng. Mẹ đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa cho nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta cũng dõi bước theo Mẹ trên con đường khiêm hạ ấy.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

02/11 – Thứ sáu đầu tháng. CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.


"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". 
Lễ cầu cho mọi tín hữu qua đời

Lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục do thánh Odilon khởi xướng vào thế kỷ XI và lan rộng rất nhanh. Sau đó, Giáo Hội đã ấn định ngày lễ này vào ngày 02/11 mỗi năm.

Các ngài đã qua khỏi đời này nhưng còn phải chịu thanh tẩy trong luyện ngục vì những thiếu sót của các ngài. Hôm nay các ngài không còn tự lập công được nữa, nên chỉ mong vào lời cầu của chúng ta. Bởi thế, cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục là một việc lành và có giá trị cứu thoát. Cầu nguyện cho các ngài còn là một bổn phận của chúng ta, vì biết đâu các ngài bị giam cầm vì chúng ta. Các ngài cũng là những chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô. Cầu nguyện cho các linh hồn cũng là việc lợi ích cho chính chúng ta. Vì khi nghĩ đến các ngài, chúng ta cũng tự kiểm điểm đời mình, vì khi các ngài về trời, các ngài không quên cầu bầu cho chúng ta.


Lễ Nhất

LỜI CHÚA: Ga 6, 51-59


"Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời".

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Lễ Nhì 

LỜI CHÚA: Lc 23, 33. 39-43
"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".

Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".


Lễ Ba 


LỜI CHÚA: Ga 17, 24-26

"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".

Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".


SUY NIỆM 1: Bên kia sự chết 

Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy.

Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.

Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...".

Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.

Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.

Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.

Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.

(Trích trong ‘Lẽ Sống’ - Radio Veritas Asia)

SUY NIỆM 2: Chết không phải là xa cách vĩnh viễn 

Hằng ngày người ta chứng kiến hoặc nghe nói hoặc đọc trên báo chí về những cái chết do già yếu, bệnh tật, tai nạn, thiên tai, chiến tranh, bạo động... gây ra. Và người ta nghĩ chết chóc là chuyện xẩy ra cho người khác, chứ chưa xẩy ra cho chính mình. Đa số loài người có thể đương đầu với cuộc sống dù có vất vả khổ cực đi nữa. Tuy nhiên ít ai muốn đương đầu với cái chết. Người ta cũng cảm thấy khó chấp nhận cái chết của người còn trẻ tuổi và người thân yêu. Tâm trạng đó có nghĩa là người đời sợ chết hay chưa muốn chết vì người ta sợ đối diện với những gì xẩy ra ở đời sau mà người ta không biết trước được. Có những người sợ chết đến nỗi dặn những người thân yêu phải nắm chặt tay chân mình trong lúc hấp hối.

Trong thực tế, chết có thể xẩy đến cho bất cứ ai: già trẻ, lớn bé, hoặc bất cứ lúc nào: ngày cũng như đêm, hay bất kì ở đâu, ngay cả tại những nơi mà người ta tưởng là an toàn nhất, người ta vẫn có thể chết. Như vậy, chết không kiêng nể một ai. Khi nào thiên thần Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn, gọi linh hồn ra khỏi xác, là một điều bí mật. Như vậy sống và chết gắn liền với nhau. Có thể nói được là người ta sinh ra để mà chết. Và tất cả cuộc sống là một tiến trình đi về cái chết.

Đối với người tin tưởng vào ơn cứu độ của Chúa Kitô, Đấng cứu độ trần gian, thì chết không phải là hết, cũng không phải là xa cách vĩnh viễn. Chết chỉ là một biến đổi từ đời này qua đời khác. Người thân nhân còn sống cần đem sự hiện của người khuất bóng vào đời sống gia đình bằng hình ảnh của người quá cố, bằng công nghiệp của người quá cố để lại, bằng những kỉ niệm có được với người quá cố và nhất là bằng lời cầu nguyện và lễ dâng cho người quá cố.

Phụng vụ lễ các linh hồn nhắc nhở cho người tín hữu là người lữ hành trên cuộc hành trình đi về nhà Chúa, họ không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với toàn thể dân Chúa, cùng với Mẹ Maria và các thánh, cùng với người tín hữu tại thế và các linh hồn nơi luyện ngục.

Theo tín điều Các Thánh cùng Thông công, thì Mẹ Maria và các thánh trên trời có thể cầu bầu cho người tín hữu tại thế. Người tín hữu tại thế có thể cầu nguyện cho nhau, ủng hộ tinh thần cho nhau và cầu nguyện các linh hồn nơi luyện ngục. Giáo lí về việc người tín hữu tại thế cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục được các Công Đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô gọi là Tín Điều Các Thánh cùng Thông Công thì Công Đồng Vaticanô II gọi là sự hiệp thông sống động (GH #51).

Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng lời cầu bầu của Mẹ Maria và các thánh và lời cầu nguyện, hi sinh và gương sáng của người khác. Và ngay cả khi nằm xuống vĩnh viễn, người quá cố vẫn còn được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện của họ hàng, thân nhân và bạn hữu và của toàn thể Giáo hội và bằng ý chỉ của thánh lễ dâng. Biết được như vậy, nghĩa là biết được rằng sau khi chết mà còn có những người thân yêu, bạn bè nhớ đến mình trong lời cầu nguyện và thánh lễ, là điều sưởi ấm tâm hồn biết bao.

Ngay trong thời Cựu ước ngôn sứ Isaia đã có thể nhìn đến một viễn tượng khi Đấng cứu độ trần gian sẽ đến: tiêu diệt tử thần (Is 25:8). Còn thánh Phaolô thì bảo tín hữu Rôma phải cậy trông vào ngày mà họ: sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (Rm 8:21). Kinh Tiền tụng I trong Thánh lễ cầu cho những người đã qua đời nhắc nhở cho người tín hữu: Sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị huỷ diệt tiêu tan, thì được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Chết là một biến đổi vì Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh của Người. Bằng việc sống lại Chúa đã xoá bỏ tội lỗi và toàn thắng sự chết.

Trước khi về trời, chính Chúa Giêsu cũng hứa với ta qua các tông đồ: Thầy đi dọn chỗ cho chúng con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho chúng con thì Thầy sẽ trở lại và đón chúng con về với Thầy, để Thầy ở đâu, chúng con cũng được ở đó (Ga 14:2-3). Lời hứa đó đã được thực hiện cho người gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Kitô mà có lòng ăn năn sám hối: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng (Lc 23:43).

Hôm nay vì lòng hiếu thảo và tình bác ái Kitô, ta đến nhà thờ dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, những linh hồn tổ tiên, ông bà cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân quyến và bạn hữu đã khuất bóng. Xin Chúa vì lòng nhân hậu, khoan dung và hay tha thứ xét nhử nhân hậu với các linh hồn, đưa các linh hồn về hưởng ơn nghĩa trong nước Chúa.

Lời cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời:

Lạy Chúa cả nhân lành hay thương xót.

Chúa không muốn cho loài người phải chết đời đời,

nhưng được sống.

Xin Chúa dủ lòng thương xót các linh hồn đã qua đời.

Xin dùng máu thánh Con Chúa đã đổ ra vì tội lỗi loài người

mà tẩy sạch vết nhơ tội lỗi cho các linh hồn

cho được hưởng phúc trường sinh. Amen.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ - Lm Trần Bình Trọng)

SUY NIỆM 3: Cầu cho các tín hữu đã qua đời 

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi.

Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi. Để nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.

Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.

Đức Thánh Cha viết như sau:

"Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: "Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối". Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta".

Đức Thánh Cha giải thích:

"Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: "Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa". Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình".

Đức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Đức Phaolô VI như sau:

"Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy".

Chính vì thế mà Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác.

Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:

"Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: "Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta".

Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.

SUY NIỆM 4: Báo hiếu mẹ cha 
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau:

Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị vứt lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo: Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời...

Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay. Thế nên, điều gì đáng bỏ công, đáng làm, hãy làm từ ngày hôm nay. Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài mà người ta yêu đã nằm bất động chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương.

Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta. Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ. Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta. Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người. Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ. Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta. Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ. Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta?

Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.

Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi. Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi. Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. "Lửa" luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống.

Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta lời cầu nguyện, cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ, cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội. Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng. Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ. Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con". Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì "ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời. Khi sống quan tâm, chăm sóc. Khi chết dâng lễ, cầu nguyện.

Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài. Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời. Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam.

Trước tiên là ân nghĩa sinh thành:

"Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường:

"Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách:

"Mẹ già ở túp lều tranh,

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".

Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha:

"Ai về tôi gởi buồng cau,

Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.

Ai về tôi gởi đôi giầy,

Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi".

Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ. Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội. Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha. Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài "Ơn nghĩa sinh thành" để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta.

"Uống nước nhớ nguồn

Làm con phải hiếu

Anh ơi hãy nhớ năm xưa

Những ngày còn thơ

Công ai nuôi dưỡng.

Công đức sinh thành

Người hỡi đừng quên

Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Người ơi, làm người ở trên đời

Nhớ công người sinh dưỡng

Đó mới là hiền nhân

Vì ai ta nên người tài ba

Hãy nhớ công sinh thành

Vì ai mà có ta. Uống nước...

(Lm. Tạ duy Tuyền)



SUY NIỆM 5: Tri ân tình cha, tình mẹ

Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.

Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.

Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!".

Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.

Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...

Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".

Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:

"Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:

"Nuôi con buôn tảo bán tần

Chỉ mong con lớn nên thân với đời

Những khi trái nắng trở trời

Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên

Trọn đời vất vả triền miên,

Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha

Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:

Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha

Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn

Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:

"Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao

Đố ai đếm được những vì sao,

Đố ai đếm được công lao mẫu từ".

Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:

"Nhớ ơn chín chữ cù lau

Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".

Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:

"Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con đi trường học mẹ đi trường đời".

Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.

Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.

Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.

(Lm. Tạ duy Tuyền)

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Làm Việc Hãm Mình Để Cứu Các Linh Hồn


Trong tất cả chúng ta không nhiều thì ít, ai cũng hiểu rằng sau cuộc đời này, chúng ta hết thảy sẽ lần lượt đến một nơi khác được gọi là Luyện Ngục. Chúng ta sẽ phải ở đấy cho đến khi Linh Hồn của chúng ta được tôi luyện, được tẩy sạch mọi tội lỗi mà chúng ta đã mắc phạm khi còn sống trên trần gian này. Mới xứng đáng để được Mẹ Maria đem chúng ta lên Cửa của Nước Trời.

Vì thế có sớm lắm không khi chúng ta bắt đầu làm những công việc đền tội cho linh hồn chúng ta ngay tại cuộc đời này? Thưa càng sớm càng tốt, bởi ai cũng hiểu cuộc sống đời này rất ngắn ngủi cho rất nhiều người. Xin đừng để chúng ta hành động giống như con Đà Điểu rúc đầu xuống cát, là từ chối mọi sự thật. Nhất là chúng ta là những Kitô hữu, biết rõ ràng đường đi nước bước, trước khi ta được thực sự Về Nhà Cha ta ở Trên Trời, và để có sự sống muôn đời. Nơi mà sinh, bệnh, lão, tử sẽ không có ở trên ấy.

Những gì đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất, bình an nhất chưa có ai trên trần gian này có được diễm phúc chiêm ngắm, và được vinh hạnh thấy bao giờ. Nhưng đó có phải là sự việc của Thiên Chúa? Giờ nào Người gọi chúng ta ra khỏi cuộc sống trần gian này, trong thời gian nào, hay mãi ở tuổi 100?. Do đó mà phận sự của chúng ta luôn là phải “chuẩn bị” cho cái ngày ra đi đột ngột ấy, cái ngày vĩnh biệt mà có thể một lời trăn trối cũng không thể có. Cho nên chúng ta chớ đừng tỏ lộ sự thờ ơ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, kẻo sẽ có ngày chúng ta chết tươi ăn năn tội chẳng kịp.

Quả thật là mọi hướng đi trên trần gian này chúng ta được Thiên Chúa dậy rằng trước phải kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như yêu chính mình. Nếu cả thế gian con người nghiệm được Điều Chúa dậy thì hình bóng của chiến tranh, chết chóc, mất mát, ghen ghét, và hận thù sẽ không thấy có mặt trên trái đất này!?. Nhưng vì con người chúng ta đã để mặc cho Linh Hồn sống đời của chúng ta luôn đói khát, khát vọng, rách nát, và bị nghèo nàn mãi mãi. Trong ước vọng thật mỏng manh là Nó được thấy Thiên Chúa Đấng toàn năng tác tạo muôn loài, cả Trời và Đất và Nó ao ước được ở cùng Thiên Chúa của Nó mãi mãi.

Có phải hiện tại Linh Hồn của chúng ta Nó như bị nhốt tù chung thân hay không? Vì Nó bị chủ của Nó coi rẻ, ghét bỏ Nó như con chó ghẻ lở?. Bỏ Nó bị đói khát để lo đi tìm những lợi lộc, những mê đắm, tìm sự giầu sang, tìm những của phù du chóng qua và mau teng sét?. Rõ khổ cho cái mộng mơ rất là ảo tưởng của con người mà không hiểu rằng ngộ nhỡ ngay ngày mai đây, ta có còn sống được nguyên vẹn cách rất bình thường hay không?.

Chỉ cần một cơn tai biến mạch máu não (stroke), nhồi máu cơ tim (heart attack) thì đủ biến chúng ta thành thực vật không hơn không kém. Chỉ ngay liền sau ấy ta mới thấy, ta mới hiểu rằng chính ta là kẻ dại dột và ngu muội nhất trên đời?. Vì chỉ khi ấy ta mới thấy rằng ngay cả cái thở, cái cử động nhẹ, cái nói năng, nó mới khổ làm sao?. Có phải lúc bấy giờ thì mọi sự sinh hoạt dù là một cử động nhỏ ta cũng phải cần đến người lo cho ta?. Ôi sao ta không muốn khóc mà hai hàng nước mắt nó cứ chực ứa ra nơi hai khóe mắt?. Có phải đó là những hàng nước mắt của ăn năn thống hối hay là của những hối tiếc những tháng ngày cũ qua?.

Rồi thì người ta yêu ta thương nhất cũng dần rời xa ta để đi theo tiếng gọi của tình yêu mới, mà không cần có lời từ biệt. Rồi thì nhìn quanh cũng chỉ còn lại người yêu thương ta nhất trên đời không ai khác, luôn chầu chực bên giường của ta là cha mẹ đẻ của ta mà thôi!. Vâng, đời là thế và tình là thế! Nhưng vì phận con người của chúng ta luôn hèn kém, nhút nhát, ủy mị, tham lam, ích kỷ, nên Thiên Chúa Người đã chuẩn bị cho chúng ta “cách thức” để ngay ở giờ phút chót chúng ta cũng còn có cơ hội để Về được với Chúa.

Thứ nhất Thiên Chúa Người ban cho chúng ta một người Mẹ tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria và Chuỗi Mân Côi cực linh thánh của Mẹ. Hãy bắt đầu tập làm quen với Kinh Mân Côi để trong mọi tình huống Mẹ sẽ cứu giúp Linh Hồn của chúng ta. Thứ hai là dùng Kinh Mân Côi để cầu nguyện cho Hòa Bình trên khắp thế giới, cho Giáo Hội Chúa, cho sự bình an của mọi gia đình người thân, cho chính Linh Hồn sống đời của mình, và mọi Linh Hồn còn nơi Luyện Ngục. Vì ta cầu nguyện cho họ thì khi Linh Hồn của họ được Về Trời thì họ sẽ cầu nguyện ngược lại cho ta, nhưng có kết quả giúp ta đến gấp trăm lần.

Thứ ba là khi ta làm mọi việc dù nhỏ nhất nhưng biết dâng lên Thiên Chúa với ý chỉ cầu nguyện cho Linh Hồn họ thì không việc gì ta làm lại mất đi đâu. Cùng dâng lên Thiên Chúa mọi hy sinh, đau khổ, đau đớn trong thân xác, hãm mình, buồn phiền, để giúp Linh Hồn ACE chúng ta chóng được về Nước Trời. Thứ tư là sự dâng cúng tiền bạc là 1/10 nguồn lợi tức mà Chúa ban cho chúng ta hàng năm vào Giáo Xứ nơi chúng ta đến ít nhất tuần một lần để dự Thánh Lễ. Xin Thánh Lễ cho Linh Hồn mồ côi. Cùng những việc tốt lành khác như giúp kẻ nghèo, thăm kẻ liệt lào, tù nhân, v.v….

Có nhiều lắm không thưa anh chị em?. Có nhiều thì ta giúp nhiều. Có ít thì ta giúp ít. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy rõ (see thru) tấm lòng thành của chúng ta mà thôi!. Nhưng điều quan trọng vẫn là “chớ để chờ đến ngày mai” các bạn nhé; hãy có ý định làm liền ngay ngày hôm nay!. Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

Lễ Các Thánh Nam Nữ


Hôm nay, Giáo Hội trần gian hay Giáo Hội lữ hành, Giáo Hội chiến đấu mừng Giáo Hội chiến thắng, Giáo Hội khải hoàn.Mừng các thánh để tạ ơn vì lòng thương vô bờ của Chúa đối với các thánh.
Mừng để thấy rằng các thánh không ai xa lạ mà là người nhà của chúng ta.

Nhiều người lầm tưởng rằng các thánh là những siêu nhân, đã sống một cuộc sống phi thường và đã được Chúa ân thưởng, tưởng rằng các thánh được Giáo Hội tôn vinh mới là thánh. Hôm nay chúng ta mừng tất cả các thánh đang hạnh phúc với Chúa, những đấng thánh không bao giờ ai biết đến, thuộc đủ mọi thành phần mà chúng ta có thể nói là các thánh vô danh.Các ngài thuộc mọi thời từ Ađam cho đến hôm nay, trong số đó có rất nhiều tổ tiên,ông bà, cha mẹ bà con anh chị em chúng ta, và có rất nhiều đấng thánh không phải là người công giáo mà thuộc mọi thành phần nhân loại đã sống đúng như Chúa muốn.

Mừng các thánh tức là mừng những người con của Chúa đã từng sống trong trần gian khổ lụy nầy và đã chiến thắng sự dữ và tội lỗi.” Họ từ cuộc thử thách lớn lao mà đến”.” Họ đã giặt áo họ trong Máu Con Chiên”.

Mừng các thánh là mừng những anh hùng đã dám sống “trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Họ đã dám sống nghèo giữa một thế giới giàu có tràn trề của cải, dám cho đi tất cả mà không hối tiếc. Họ dám sống hiền lành giữa những người dã man, vô nhân đạo, vẫn dám yêu thương không hận thù, chịu đựng mọi gian nan cùng cực mà vẫn vui tươi trong sáng. Họ dám sống yêu thương giữa những con người ích kỷ tham lam.Họ vẫn sống trong sạch trong một xã hội điên rồ chỉ biết hưởng thụ và vô tâm.Họ dám chấp nhận mọi cuộc bách hại mà không sờn lòng nản chí. Tóm lại họ là những người dám lội ngược dòng, họ thuộc hạng người mà thế gian ruồng bỏ hay khinh miệt, cho là dại khờ, mơ mộng.

Các thánh cũng có hạng người thuộc “ giờ thứ mười một”, nghĩa là được cứu thoát vào giờ chót, như tên trộm trên thập giá…

Mừng các thánh nam nữ, Giáo Hội khích lệ con cái mình mạnh tiến trên con đường thánh thiện vì nên thánh không là một hồng ân dành cho riêng ai mà là hồng ân của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với mọi người.

Trần gian chính là lò luyện các thánh.Chúng ta đang được thanh luyện qua cuộc sống hôm nay, qua những thử thách, qua mọi biến cố vui buồn để nên thánh. Điều cần thiết là chúng ta có thật sự trung thành hay không: “ Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu thoát”. Nên thánh không phải là làm những việc phi thường mà là trung thành trong việc nhỏ, anh hùng trong khiêm tốn.

Lễ các thánh là một lời nhắn mời gọi mọi người hướng đến sự thánh thiện.Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta, Ngài cho chúng ta gương lành của chính Cha trên trời: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em ở trên trời là Đấng trọn lành”. Nên thánh đâu phải là cái gì lạ lùng đâu! Nên thánh chỉ là sống tốt như Cha trên trời.Chỉ có vậy thôi, nhưng chúng ta có tốt chưa? Tốt chưa đủ, phải thật tốt mới giống Cha trên trời.

Chúa Giêsu cũng là gương mẫu cho chúng ta. Ngài sống giữa mọi người, tầm thường như mọi người, nhưng Ngài là “ Đấng Thánh của Thiên Chúa”, Ma quỉ đã nhìn nhận như thế. Ngoài những phép lạ, Ngài hoàn toàn như chúng ta.Sao chúng ta không giống Ngài ? Chúng ta không hiền lành và khiêm nhượng như Ngài. Sự thánh thiện của Ngài không là một cái gì lạ lùng nhưng là một nét tự nhiên của cuộc sống, là một nét tự nhiên của Ngài.Sự thánh thiện là cái gì nằm trong con người , trong cuộc sống, trong cử chỉ hành động, chứ không là cái gì từ bên ngoài thêm vào.Nên thánh tức là biến bản chất con người chúng ta thành bản chất của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cho chúng ta một đường hướng để biến thành con người mới như thánh Phaolô thường nói đó là con đường tám mối phước thật.Tất cả các thánh đều đi qua con đường đó, dù chúng ta thấy hay không.Không có ai giàu có mà vào Nước Trời, và nếu là người giàu thì cũng phải sống nghèo mới có thể nên thánh. Vua thánh Lu-y,là một vị vua, ngồi trên ngai báu. Ngài vẫn là một người nghèo vì theo những người đương thời, Ngài luôn ăn uống kham khổ và thường ăn chay.Ngài không sử dụng những tiện nghi mà người ta đã lo sẵn cho Ngài. Ngài không ngủ trên giường nệm êm ấm mà chỉ ngủ dưới đất…

Không có ai dữ tợn mà vào Nước Chúa.Cũng không có ai gian dâm mà được đón nhận.

Đi vào con đường thánh thiện là bước theo Chúa Giêsu. Các thánh nam nữ đã thành công khi các ngài chấp nhận con đường lao khổ đó.Gương lành của các thánh là một khích lệ cho mỗi người chúng ta. Chúng ta vẫn có thể sống thánh ngày hôm nay, trong trần gian đầy cạm bẫy và lao nhọc nầy.

Có những đấng thánh mà khi chết rồi, người ta mới biết được sự thánh thiện của các ngài như bà thánh Maria Luigi, chịu đựng một ông chồng say sưa nghiện ngập suốt hơn hai chục năm, không than phiền. Vì quá lao lực, thánh nữ từ trần. Khi ấy ông chồng mới nhìn thấy rằng: “Vợ tôi là một bà thánh!” Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng vậy. Khi chết rồi người ta mới khám phá ra sự thánh thiện của ngài.

Ở trần gian nầy, chúng ta có thể sống gần những đấng thánh mà không hay biết vì họ rất khiêm tốn.Thánh Mactinô Porrès , thánh Giêrađô là những đấng thánh vô danh, hèn kém, không ai chú ý, nhưng lại là những đấng thánh đáng khâm phục.

Công Đồng Vatican II đã dành một đoạn dài trong Hiến Chế về Giáo Hội để kêu gọi mọi người nên thánh. (Xem HCGH số 39-42).

Xem ra nên thánh không có gì khó, nhưng sao lạ thật! Không mấy người nên thánh?

Đó là vấn nạn, một vấn nạn mà chúng ta không thể né tránh.

Chúng ta không nên thánh, vì chúng ta không thật lòng muốn nên thánh.Chúng ta vẫn không muốn sống như Chúa Giêsu mà chỉ muốn sống theo ý mình. Con đường tám mối phước thật không thích hợp với chúng ta.Thế gian với những tiện nghi và sung sướng của nó hấp dẫn chúng ta hơn.

Chúng ta không nên thánh, vì chúng ta không biết Chúa Giêsu là ai. Ngài không đủ thuyết phục.Những ngôi sao bóng đá, vua nhạc Rock hay ca sĩ nào nổi tiếng hấp dẫn hơn.Chúng ta vẫn còn thiếu một cái gì đó làm chúng ta ngại không dám bước tới: “Vì anh chàng có nhiều của cải”…

Nên thánh là sống cho một mình Chúa, hoàn toàn cho Chúa. Chúng ta dám không? Các thánh đã đạt đến thành công, chúng ta đang còn đắn đo lợi hại. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ lấp lửng đó.” Hãy theo Ta”.Tiếng gọi của Ngài không chấp nhận trì hoãn.

Nơi bàn thờ nầy, Ngài đến thúc hối chúng ta theo Ngài. Thánh Phaolô nói: “Tình yêu Chúa thúc bách chúng ta”. Không thể giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi của Ngài vỉ chính Ngài thân hành đến đón chúng ta. Ngài luôn đi trước. Ngài đi xa đến nỗi cho chúng ta ăn lấy Ngài để chúng ta kinh nghiệm tình yêu của Ngài, và chính tình yêu mới có thể giúp chúng ta dứt khoát theo Ngài. Hãy lắng nghe tiếng mời gọi của Ngài, vì chỉ có Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời.

Lm Trầm Phúc

TẠI SAO PHẢI CẦU CHO CÁC LINH HỒN NƠI LUYỆN NGỤC





LINH HỒN LUYỆN NGỤC TRẢ ƠN ÂN NHÂN ĐÃ CỨU MÌNH

Chúa Giêsu đã phán: "Hãy dùng tiền của vô nghĩa mà mua chuộc bạn bè, để khi ngươi hết của, họ sẽ đón ngươi vào nơi ở muôn đời" (Lc 16,9).

* Thánh Anphongsô cũng dạy: "Ai cứu giúp các linh hồn Luyện ngục là những con cái rất thân thương của Chúa, người ấy có thể tin tưởng rằng mình sẽ được cứu rõi, bởi nếu một linh hồn được giải thoát nhờ lời cầu nguyện và các việc lành của ai, linh hồn được cứu sẽ cầu nguyện không ngừng cho người đã cứu mình, và Chúa sẽ không từ chối lời cầu xin của bạn thân thiết Người".

1. Các linh hồn cầu bầu cho các ân nhân trước mặt Chúa.
2. Các linh hồn giúp đỡ các ân nhân trong công việc làm ăn đời này.
3. Các linh hồn biết ơn các ân nhân bằng cách giúp phần rõi đời đời.
4. Các linh hồn giúp đỡ các ân nhân khi họ qua đời và trước tòa Chúa phán xét.

Các nhà thần học như Gregoriô, Valencia, Berlaminô, Suarez, Sylviô, và nhiều vị khác đồng ý rằng các linh hồn Luyện ngục cầu bầu cho các tín hữu cách chung, nhưng cầu bầu cho những ân nhân và thân nhân mình còn sống trên trần gian cách riêng.

* Thánh nữ Magarita thành Cortona có lòng thương các linh hồn Luyện ngục lắm. Trong truyện đời thánh nữ, người ta kể rằng: Sau khi qua đời, thánh nữ đã thấy vô số linh hồn mà người đã cứu khỏi Luyện ngục đã mặc hình người đón linh hồn thánh nữ vào thiên quốc.

* Thánh Philip Nêri cũng được nhiều linh hồn con thiêng liêng người hiện ra với người sau khi họ qua đời, hoặc để xin người cầu nguyện, hoặc để cảm ơn người đã cứu giúp. Khi thánh nhân qua đời, một linh mục dòng người được thấy vô số linh hồn đến vây quanh và đưa người vào Thiên đàng.

* Cha Lacordaire, một Linh mục nổi tiếng nước Pháp kể truyện sau đây trong cuốn sách Các Bài giảng về linh hồn bất tử: Một hoàng tử vô thần người Ba lan đã viết xong một quyển sách chống vấn đề linh hồn bất tử . Hoàng tử sắp cho in ra. Ngày kia, ông đang đi bộ trong công viên, một phụ nữ chạy tới qùi xuống chân ông khóc lóc: "Lạy hoàng tử, chồng tôi chết mấy ngày nay, có lễ linh hồn ông ta đang ở dưới Luyện ngục đau khổ, nhưng tôi nghèo không có lấy một đồng để xin lễ cho linh hồn chồng tôi, xin hoàng tử giúp tôi để tôi giúp lại chồng".

Dù không tin có đời sau, hoàng tử cũng mủi lòng và đưa cho bà ta một đồng tiền vàng ông đem theo mình. Người đàn bà mau mắn chạy đến nhà thờ xin lễ cho chồng. Ba hôm sau, vào buổi chiều, hoàng tử đang ngồi nghỉ trong phòng đọc sách vắng vẻ, bận bịu sửa chữa lần chót quyển sách nói trên, bỗng ông nghe có tiếng động đậy, vội nhìn chung quanh, ông đã thấy sừng sừng trước mặt một người ăn vận kiểu nhà quê đang đứng đó. Ngạc nhiên và tức giận, sao lại có người nhà quê vào phòng lúc này khi ông chưa cho phép. Ông đứng dậy đuổi đi ngay. Người nhà quê biến mất. Hoàng tử gọi các tôi tớ đến trách mắng tại sao lại cho người nhà quê vào phòng không xin phép trước. Các tôi tớ ngạc nhiên không biết ai đã vào phòng ông. Họ quả quyết không có khách lạ vào dinh lúc này. Hoàng tử im lặng về phòng, nhưng đinh ninh rằng "Chắc chắn có người đã vào".

Cũng cùng giờ chiều hôm trước, khi ông ta đã quên truyện ấy, người nhà quê lại hiện ra đứng trước mặt ông không nói nửa lời. Lần này hoàng tử nổi giận quát mắng xua đuổi ra ngay. Người nhà quê lại biến mất. Hoàng tử chạy tìm quanh nhà không thấy người ấy đâu. Tôi tớ xục xạo khắp chốn nhưng không ai hiểu ra sao hết. Hoàng tử bắt đầu suy nghĩ, chờ đợi.

Chiều hôm sau cũng giờ ấy, người nhà quê đến nữa, nhưng trước khi hoàng tử nổi nóng đuổi đi thì ông đã lên tiếng: "Thưa hoàng tử, tôi tới đây cảm ơn ngài, tôi là chồng của đàn bà nghèo khổ, ngài đã bố thí cho một đồng vàng để bà ta xin lễ cầu cho linh hồn tôi cách đây mấy bữa. Cử chỉ bác ái của ngài đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa cho phép tôi về đây để cảm ơn hoàng tử và quả quyết với ông rằng "có đời sau", và linh hồn người ta không chết. Hoàng tử hãy dùng ơn Chúa ban đây để lo phần rõi đời đời của mình". Nói xong người nhà quê biến đi. Hoàng tử đã chợt bừng tỉnh, ông quyết định không xuất bản quyển sách chống linh hồn bất tử nữa (Charity p. 298).

* Thánh nữ Catarina thành Bologna chứng thực rằng, bất cứ khi nào bà xin Chúa ơn gì, bà luôn nhờ các linh hồn Luyện ngục, và hầu như lần nào bà cũng được ơn xin. Bà thánh thêm rằng, nhiều ơn bà xin các Thánh không được, bà xin các linh hồn Luyện ngục lại được, bà nói: "Khi tôi muốn được ơn nào từ Cha nhân lành, tôi thường xin qua các linh hồn đau khổ trong Luyện ngục, và tôi thường được ơn tôi xin" (Charity p. 299).

* Đấng Đáng kính Frances Thánh Thể rất hay cứu giúp các linh hồn quả quyết rằng: Các linh hồn giúp đỡ bà trong mọi nơi nguy hiểm và cho bà biết ma quỉ đặt ra cạm bẫy để cám dỗ bà. Một linh hồn hiện ra nói rằng: "Quỉ dữ tìm mọi cách hại bà, nhưng đừng sợ, chúng tôi che chở bà". Linh hồn khác nói rằng: "Chúng tôi cầu cho bà hằng ngày. Khi ai nhớ tới chúng tôi, chúng tôi cũng nhớ tới và cầu bầu cho họ trước mặt Chúa, nhất là chúng tôi xin cho họ được ơn trung thành phụng sự Chúa và được ơn chết lành" (Charity p. 299).

* Thánh nữ Brigitta, trong cơn ngất trí nghe thấy nhiều linh hồn kêu lên: Lạy Thiên Chúa Toàn năng, Chúa thưởng gấp trăm lần cho những ai giúp đỡ chúng con bằng lời cầu nguyện, bằng việc lành, để chúng con được về hưởng Tôn nhan Chúa".

* Cha thánh Gioan Vianey nói: "Các linh hồn Luyện ngục có thần thế chừng nào đối với Trái Tim nhân lành của Chúa, nếu chúng ta biết đã nhận bao nhiêu ơn lành do các linh hôn cầu bầu, ta sẽ không quên cầu cho các ngài". Thánh nhân nói thêm: "Ta phải cầu thật nhiều cho các linh hồn Luyện ngục, để các linh hồn Luyện ngục cầu nhiều cho ta" (Purgatory p. 339).

* Đấng Đáng kính Crescentia có thói quen cầu xin các linh hồn Luyện ngục giúp đỡ, và bà quyết chắc rằng bất cứ khi nào bà ước muốn được Chúa ban ơn gì đặc biệt, bà cũng được nhận lời.

* Bà Bề trên Macrina kể lại truyện này cùng Đức Giáo Hoàng Piô thứ 9, ngài truyền thuật lại cho mọi người nghe như sau: Năm 1843, những người bắt đạo Công Giáo thời Cêzar Nicholas nhốt chúng tôi vào tù, bắt nhịn đói và bắt uống nước pha muối, để bởi khát khô cổ mà chị em chúng tôi phải bỏ đạo. Hai ngày đầu cơn khát nước hành hạ chúng tôi khổ sở lắm, da và môi chúng tôi se lại.

Trong nơi khổ sở này, chúng tôi nhớ đến cơn khát của các linh hồn Luyện ngục nóng nảy rát rúa và khát nước hằng sống gấp bội chúng tôi. Chúng tôi liền sấp mặt xuống đất cầu nguyện cho các linh hồn ấy. Chúa đã thương chúng tôi, bởi mấy ngày sau cũng bị bắt nhịn đói và uống nước muối, nhưng chúng tôi không thấy đói khát nữa. Tới ngày thứ bảy người ta mở cửa tù ra và tưởng chúng tôi ù chạy tới vòi nước uống cho giải khát, nhưng chúng tôi lại xin chịu khát để kính 7 sự đau đớn Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc. Người quản tù ngạc nhiên và rất tức bực, lớn tiếng quát hỏi người canh tù tại sao kết quả xảy ra trái ngược như vậy, tại sao chúng tôi không chết, hay là chúng tôi có phù phép gì đây? Nhưng không, chính Chúa, Đức Mẹ, các linh hồn Luyện ngục đã cứu giúp chúng tôi (Charity p. 306).

* Một thiếu nữ nghèo nhưng được học giáo lý từ ngày còn nhỏ. BỞI nhà nghèo cô phải đi ở mướn. Cô có thói lành là tháng nào cũng xin lễ cho các linh hồn Luyện ngục. Khi rời miền quê theo ông chủ lên ở tỉnh thành, cô cũng vẫn giữ thói quen đó. Hơn nữa chính cô đi dự lễ hợp lời cầu nguyện với linh mục chủ tế để cầu cho các linh hồn sắp được ra khỏi Luyện ngục. Chúa muốn thử lòng cô gái nghèo bằng một cơn bệnh. Không những cô đau đớn bởi bệnh, cô còn bị mất việc làm và tiêu xài hết cả món tiền nhỏ đã dành dụm được. Khi khỏi bệnh, túi cô chỉ còn một đồng bạc. Làm sao bây giờ? Cô ngửa mặt cầu xin Chúa ban cho chỗ làm khác. Nghe nói có một nhà cuối phố muốn tìm người ở mướn, cô liền tìm đến xin việc làm. Khi đi được nửa đường, gặp nhà thờ, cô vào để kính viếng Chúa.

Cô nhớ lại cả tháng nay không được dự lễ, nên nảy ra ý định lấy đồng bạc cuối cùng xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn, nhưng bụng đói quá làm sao chịu được. Cuối cùng cô vào phòng mặc áo lễ với niềm tin "Chúa biết mọi sự, bởi vinh Danh Chúa, Chúa không bỏ con". Cô đã xin một lễ cầu cho linh hồn Luyện ngục, rồi cô sốt sắng dâng Thánh lễ đó.

Dự lễ xong cô tiếp tục đi về cuối phố, phó thác tương lai cho Chúa. Đang khi cô lủi thủi bước đi thì một thanh niên dáng vẻ xanh xao đi ngược chiều. Gặp cô, chàng hỏi: "Có phải cô đang đi tìm việc làm không? Cô cứ đến nhà đường này, số này, vào tìm bà này... bà ta sẽ nhận cô và xử tử tế với cô". Nói xong chàng biến đâu mất, cô chưa kịp cám ơn chàng. Tìm đến đúng đường và đúng số nhà, cô ấn chuông cổng. Một cô gái khác đã bị bà chủ đuổi, sắp phải ra đi, vẻ tức giận càu nhàu ra mở cổng nói xẵng: "Vào mà gõ cửa, bà ta sẽ mở cho!" Rồi cô ta xách gói đồ của mình đi thẳng ra phố.

Bà chủ nhà nghe tiếng gõ cửa, ra mở và thấy cô thiếu nữ nghèo, bà hỏi ai chỉ cho mà biết đường tới đây xin việc. Cô thật thà kể lại tình cảnh. Thấy truyện hay hay, bà bảo cô kể lại từ đầu, kể xong cô nhìn bức ảnh trên tường reo lên: "A! Thưa bà, chính anh này bảo con tìm đến nhà bà". Bà chủ nhà rất xúc động thấy cô nhà nghèo có lòng thương các linh hồn , đã bỏ ra đồng bạc cuối cùng để xin lễ, và như có sức thúc giục, bà ôm chầm lấy cô, nói trong nghẹn ngào: "Con ơi, con không phải là người làm mướn của ta, con là con ta. Chính con trai ta đã chỉ cho con tới đây, nó chết hai năm nay rồi, và con đã cứu nó. Ta tin rằng nó về chỉ lối cho con. Từ nay hai chúng ta sẽ hợp nhau cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục chóng lên Thiên đàng (Charity p. 307-309).

* Công tước Eusebiô sống vào thế kỷ 13 kể truyện sau thật lạ lùng. Siêng cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục ông chưa coi là đủ, ông còn dành một phần mười lợi tức để cứu giúp các linh hồn. Đến sau xảy ra một cuộc chiến gay go giữa phần đất của ông và vua đảo Silicia. Quân ông bị vây hãm rất gắt đến nỗi ông nghĩ phải bỏ thành chạy thoát thân. Sáng hôm sau ông thấy một đạo quân đông đúc chừng 4 ngàn chiến sĩ đồng phục trắng, cỡi ngựa và đeo binh khí hùng hậu không rõ từ đâu tới giúp. Chính vua đảo Sicilia cũng trông thấy như vậy, nên đã bằng lòng ký hiệp ước hòa bình với công tước Eusebiô.

Công tước này tạ ơn Chúa và Tướng quân đã đến giúp. Vị Tướng đạo quân vô danh nói với công tước rằng: "Những người lính ông thấy đây hầu hết là những linh hồn Luyện ngục ông đã cứu. Chúa cho chúng tôi hợp thành đoàn quân tới giúp ông. Xin ông tiếp tục cầu nguyến cứu giúp các linh hồn. ông càng cứu được nhiều linh hồn thì trên Thiên đàng ông càng có nhiều người phù hộ. Trên đó họ sẽ xin Chúa chúc phúc lành cho hồn xác ông (Charity p. 310).

* Cha Lui Monaco rất thương các linh hồn Luyện ngục. Lần kia ngài đi bộ một mình qua khu rừng vắng, miệng lẩm bẩm đọc kinh Mân côi cầu cho các linh hồn như thói quen mọi khi đi đường. Lúc ấy, có hai tên cướp chờ sẵn trong bụi rậm tính giết khách bộ hành cướp của. Bất ngờ khi chúng đến gần thì gặp ngay lúc các linh hồn Luyện ngục đến giúp ân nhân. Các ngài kết tay bao quanh cha Monaco thành một vòng tròn. Hai tên cướp không hiểu người đâu tự nhiên đến đông như thế, chúng hoảng sợ nháy nhau vội rút lui thật lỊ vào rừng rậm. Thế là cha dòng được thoát nạn. (Charity p. 310)

* Một người đã được thoát chết lạ lùng kể lại: Ông này rất tôn sùng Đức Nữ Đồng Trinh và hay cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục. Ông có thói quen tối nào cũng đọc kinh Cầu Đức Bà để cầu cho các linh hồn. Một hôm, đọc kinh vừa xong ông lên giường nằm ngủ và ngủ rất say sưa mệt mã. Trong xóm này có mấy người ghét ông bởi một lý do nào đó, từ lâu, họ đã tính giết ông. Tối hôm ấy chờ ông đi ngủ, họ bẻ khóa cửa, rón rén đi vào chỗ ông nằm. Thấy áo vắt trên ghế, nhìn vào giường không thấy ông ta đâu, chung quanh cũng không có. Lạ thật, tức giận đầy đầu, kẻ thù ông chán nản bảo nhau ra đi. Thì ra Chúa, Đức Mẹ đã che mắt không cho chúng thấy để giết ông đêm đó.

Mấy ngày sau, bọn kẻ thù bàn định trở lại giết cho được mới thôi. Tối hôm ấy, ông ta đi đâu, mệt mã trở về phòng, đọc kinh như thường lệ, nhưng đọc mới nửa kinh cầu Đức Bà, ông đã bỏ đi ngủ. Quan sát kỹ càng, kẻ thù mừng thầm bảo nhau vào chỗ ông nằm. "Lần này không chạy đâu được nữa con ơi". Đúng vậy, ông ta đang nằm dài trên giường, nhưng kỳ thật, sao ông ta bị chặt làm đôi, khúc đầu biến đâu mất, còn lại có khúc từ bụng trở xuống đang nằm đó. Hoảng sợ, mấy tên sát nhân bảo nhau bỏ chạy lập tức.

Sáng hôm sau mấy kẻ thù rất bỡ ngỡ khi thấy người mình định giết tối hôm qua vẫn còn sống lành mạnh đang đi ngoài phố như không có chuyện gì xảy ra hôm qua. Họ tưởng ông là ma. Sau khi hỏi han và thú thật dự tính định giết ông, và bắt ông kể lại lý do. Ông đã kể lại và nhận ra rằng bởi có lòng thương giúp các linh hồn Luyện ngục nên Chúa đã cứu, nhưng bởi ông đọc nửa kinh cầu Đức Bà nên chỉ có nửa mình được giấu đi. Cả đôi bên đều tạ ơn Chúa Đức Mẹ và các linh hồn Luyện ngục (Charity p. 312).

* Một người kia buôn bán thế nào mà hàng hóa còn ứ đọng rất nhiều trong sáu bảy năm trời, đến nỗi như sắp bị vỡ nợ. Ông ta đã xin một số lễ cầu cho các linh hồn Luyện ngục xin cứu giúp. Lời cầu đã được nhận, hàng hóa sau một thời gian vắn đã bán hết và thoát khỏi cảnh vỡ nợ, mất nhà, dịp tiệm (Charity p. 315).

* Đức Giáo Hoàng Benedictô thứ 8 kể như sau: Cha thánh Anphongsô Lotesi thuộc dòng Tên, bị cám dỗ rất nặng nề về đức khiết tịnh, ngài đã cố gắng mọi cách để giữ mình khỏi sa ngã chước cám dỗ ấy. Ngài chạy đến cầu khẩn cùng Đức Mẹ là Đức Nữ Đồng Trinh vẹn sạch. Đức Mẹ hiện ra dạy ngài sốt sắng cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục, ngài vâng nghe lời và được khỏi cơn cám dỗ (Charity p. 321).

* Một người khá giả kia là ân nhân lớn của các linh hồn Luyện ngục. Đêm kia khi ông đang ngủ thì có người đánh thức bảo phải đi xưng tội ngay, càng nhanh càng tốt, bởi tử thần sắp đến rước ông. Ông ta đã nghe lời đi xưng tội, rước Mình Thánh Chúa và đã chết đúng như lời người lạ loan báo. Chúa đã thương ông bởi ông đã thương các linh hồn (Charity p. 321).

* Chân phúc Frances Năm dấu thường liên lạc mật thiết với các Thiên thần và các linh hồn Luyện ngục. Trong tiểu sử đời bà kể chuyện sau đây có bằng chứng xác thực rằng: Bà kia là bạn của Chân phúc đã làm ơn nhiều cho Chân phúc khi còn sống. Sau khi bà bạn chết, Chân phúc đã dâng một thời gian dài cầu nguyện, hy sinh, làm việc lành chỉ cho bà ân nhân. Một lần, khi Chân phúc cầu nguyện, bà ta hiện về tỏ cho biết nhiều điều về tương lai. Chân phúc hỏi về những kinh nguyện mình dâng lên Chúa có giúp ích gì cho bà bạn không? Bà bạn trả lời rằng: "Tất cả những công phúc lời cầu đều ở trong tay Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ rộng ban, bà ta được an ủi rất nhiều và được giảm bớt ngày tháng chịu phạt". Chân phúc còn hỏi về một điều nghi ngờ không biết những sự đau đớn bà chịu do những bệnh nạn chỉ cho bà bạn, bà có được ích gì không? Bà này trả lời: "Ồ, ngay lúc bà chịu đau đớn ở trần gian, Thiên thần chuyển cho tôi sự vui sướng Thiên đàng. Khi bà hết đau, tôi lại phải chịu khổ ". Sau ít ngày, bà ân nhân hiện về cảm ơn Chân phúc đã cứu mình khỏi Luyện ngục (Charity p. 322).

* Sơ Magarita Ebner dòng Thánh Đaminh, rất thân thiết với các linh hồn Luyện ngục. Bà đã hy sinh cầu nguyện và cứu được nhiều linh hồn. Bà rất muốn tiến nhanh trên đường trọn lành kính mến Chúa, nên xin với các linh hồn cách riêng về chủ ý này. Các linh hồn đã trả ơn bà. Chính bà khuyến khích rằng: "Nếu ai muốn tiến tới trên đường trọn lành, hãy nhờ các linh hồn Luyện ngục cầu bầu cho, các linh hồn sẽ giúp được như lòng mong ước" (Charity p. 321).

* Một Linh mục nói rằng, nhiều năm làm cha xứ, ngài nhận thấy các học sinh lớp giáo lý rất khó nhớ bài học. Ngài đã xoay xở mọi cách để giúp các trẻ em mà kết quả rất kém. Lưỡng lự bởi thấy trẻ em ngoan ngoãn, không lẽ không cho chúng xưng tội rước lễ lần đầu. Nhớ lại đã đọc mấy chuyện về các linh hồn Luyện ngục giúp đỡ, ngài liền bảo các em sáng tối đọc kinh cầu nguyện chỉ cho các linh hồn Luyện ngục xin giúp các em nhớ bài giáo lý. Kết quả rực rỡ, khi khảo bài, các em không những trả lời được các câu hỏi, mà còn trả lời một cách rất xuôi xắn nữa (Charity p. 322).

* Tại đô thành Paris nước Pháp, có người Công Giáo kia tìm hết cách để khuyên ông già bạn sắp chết ăn năn xưng tội. Cố gắng khuyên bao nhiêu lần mà ông già gân vẫn cứng lòng từ chối. Sau cùng ông nghĩ tới một cách là hứa xin một số lễ cho các linh hồn mồ côi cô độc nhất trong Luyện ngục, xin các ngài giục lòng ông già kia ra mềm mà chịu xưng tội rước lễ như của ăn đàng trước khi chết. Thật lạ lùng, chính ngày cuối đời, ông già đã được ơn đón nhận các Bí tích cuối cùng và chết lành bình an (Charity p. 333).

* Truyện sau đây xảy ra năm 1884 tại Florence nước Ý, một người Công Giáo tên Parrini theo hội kín Tam điểm. Ông ta đã viết chúc thư rằng, sau khi đấu kiếm với người bạn, nếu ông ta có bị thương, thì cũng không linh mục, mục sư bất cứ đạo nào được quyến dụ ông ăn năn. Sau khi ông chết, chỉ có gia đình và bạn bè được đưa xác, không cần nghi lễ tôn giáo nào hết.

Tới gần ngày định đấu kiếm, ông lại viết một chúc thư khác giống như chúc thư ông ta đã viết hai năm trước. Lập trường cứng rắn không thay đổi. Không tin tưởng tôn giáo, thánh thần nào hết.

Sau 16 hiệp đấu kiếm, ông ta bị thương nặng, chắc chắn chết tới nơi. Người ta khiêng xác hấp hối ông về nhà. Biết mình không qua khỏi, ông nói với bà bạn đi bên cạnh: "Bà làm ơn đi mời linh mục cho tôi, đi thật nhanh, tôi muốn gặp linh mục, tôi chắc chắn muốn gặp, bà đi thật nhanh cho tôi, tôi muốn gặp linh mục".

Khi cha xứ vào phòng ông đang nằm, ông vui như gặp vị sứ giả từ trời xuống. Hai người nói truyện riêng xong, cha xứ ra mời hai người vào làm chứng. Cha xứ đã hỏi ông ta có bằng lòng từ bỏ hội Tam điểm, có chừa đấu kiếm, có rút lại các bài báo nhục mạ Giáo hội không? Ông đã mạnh dạnh tuyên bố trước tượng Chúa để trên ngực, trước cha xứ và hai chứng nhân rằng ông xin từ bỏ hết, ông xin rút lại di chúc chị, xin mọi người tha thứ và cầu xin Chúa tha thứ cho ông ta. Bản tuyên bố từ bỏ này còn giữ lại tại Văn khố Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận.

Sau đó ông ta được xưng tội, rước Mình Thánh Chúa. Ông ghì chặt Thánh giá trên môi nài xin ơn tha thứ. Ông chịu các phép Bí tích cuối cùng thật sốt sắng làm mọi người Công Giáo hay không, đang đứng đó cũng phải cảm động. Ông giục lòng tin cậy mến ăn năn tội và cầu xin Đức Mẹ cứu giúp. Cha xứ xức dầu xong, ông tắt thì khi còn đang kêu tên cực trọng Giêsu Maria và ôm Thánh giá trên ngực.

Người này được ơn trở lại là nhờ ai? Là bởi từ đáy lòng ông ta chưa bỏ hẳn đức tin mà bà Mẹ đạo đức đã dạy ông hồi còn nhỏ. Và dù bên ngoài ông chống đạo nhưng ông vẫn hay làm việc bác ái, giúp đỡ người nghèo và các linh hồn Luyện ngục cách rộng rãi. Trong thời gian nhập hội kín Tam điểm, ngày nào ông cũng đọc kinh Vực sâu cầu cho các linh hồn. Mọi khi nghe có người bạn qua đời, ông liền đọc kinh Vực sâu cầu cho họ. Ông đã được chết trong Giáo hội là nhờ các linh hồn Luyện ngục bầu cử cho (Charity p. 336-338).

* Linh mục Henry người nước Bỉ kể rằng: Sau khi thụ phong linh mục, ngài được cử đi dạy học và giảng đạo tại nước Đức. Ở đâu cha cũng tỏ ra là người bạn tốt của các linh hồn Luyện ngục, và thường được các linh hồn tỏ ra biết ơn. Một lần ở Cologna, sau khi dự đám táng của thầy dòng Phanxicô, cha Henry tiếp tục cầu cho thầy và cho các linh hồn Luyện ngục (Charity p. 338).

Thầy dòng Phanxicô mới qua đời được phép hiện về cảm ơn cha Henry, bởi nhờ lời cầu của ngài mà thầy chỉ phải ở Luyện ngục nửa ngày. Bây giờ thầy được lên Thiên đàng với 24 linh hồn khác cũng nhờ lời cha cầu nguyện cho.

Khi cha Henry được cử đi Wimpfen dạy học, người ta nói với cha có một người mới qua đời, khi còn sống người này đã muốn vào dòng Thánh Đaminh, người này đã giúp nhà dòng rất nhiều, coi như một đại ân nhân của dòng. Cha Henry thương cầu cho ông ta hằng ngày. Tới ngày giáp năm qua đời, ông ta hiện về với người bà con, nhờ người này đến cảm ơn cha Henry đã cầu nguyện cho mình được thoát Luyện ngục.

Sau cùng khi cha Henry gần qua đời, ngài bị bệnh rất đau đớn, nhưng ngài đã được biết trước, nên rất nhìn nhục chịu đựng. Ngài bình tĩnh chờ Đức Mẹ và các linh hồn Luyện ngục đến. Lúc ngài tắt thì, một bà già đã được thấy ngài lên Thiên đàng với 336 linh hồn khác cùng lên với ngài (Charity p. 339).

* Một giáo dân đạo đức tại miền Britany nước Pháp rất hay cầu nguyện cho các linh hồn, ông mắc bệnh sắp chết. Người ta mời cha xứ tới cho ông lãnh các Bí tích cuối cùng. Bởi mệt quá, cha xứ đã nhờ cha phó đi thay mình. Khi cha phó tới cho ông ta xưng tội, xức dầu, rước mình Thánh Chúa rồi trở về nhà. Khi đi qua nghĩa địa gần nhà xứ, ngài nghe tiếng gọi lớn: "Hỡi những kẻ chết, chỗi dậy, tới nhà thờ cầu nguyện cho đại ân nhân chúng ta mới qua đời, chúng ta mắc nợ, bởi ông hay cầu nguyện cho chúng ta!"

Cha phó bỗng thấy cửa nhà thờ mở ra và trên cung thánh thắp nến sáng, và ngài nghe có tiếng từ bàn thờ gọi kẻ chết đến cầu nguyện. Rồi ngài nghe tiếng ồn ào các bộ xương cử động bước ra khỏi mồ, xếp hàng đi vào nhà thờ hát kinh cầu cho kẻ chết. Hát xong, các bộ xương lại im lặng trở về mồ mình tại nghĩa địa, nến nhà thờ tắt hết, chung quanh im lặng hãi hùng. Tái mặt sợ hãi, run rẩy, cha phó chạy vào nhà hỏi xem cha xứ có thấy gì như mình không, cha phó thuật lại đầu đuôi, nhưng cha xứ không tin bởi ngài chưa biết người bệnh đã chết hay chưa. Trong khi hai vị còn đang nói, có người nhà vào báo tin bệnh nhân đã qua đời. Cha phó bị ám ảnh mạnh mẽ về những gì đã thấy. Ngài đã xin bỏ xứ để vào dòng, về sau lên chức Bề trên, ngài thường kể lại chuyện này cho anh em nghe mà cầu cho các linh hồn Luyện ngục (Charity p. 339-340).

* Thầy dòng Simon và thầy Gioan Fabriciô dòng Chúa Giêsu, cả hai đều là ân nhân của các linh hồn Luyện ngục, đã được các linh hồn giúp đỡ khi sắp qua đời. Một số lớn linh hồn Luyện ngục các ngài đã cứu vây quanh giường các ngài để an ủi và khi các ngài qua đời, liền đem linh hồn các ngài về Thiên đàng (Charity p. 341).

* Các linh hồn Luyện ngục không những giúp các ân nhân giờ chết, mà còn cầu bầu để các ân nhân sớm ra khỏi Luyện ngục như chuyện sau:

Bà sơ Paula Terexa nổi tiếng thánh thiện tại thành Napoli nước Ý, được thấy Chúa từ trời xuống Luyện ngục, Ngài chọn linh hồn nọ linh hồn kia đem về Thiên đàng. Bà sơ hỏi sao Chúa chọn lựa như vậy? Chúa trả lời: BỞI những linh hồn này khi còn sống đã có lòng bác ái với các linh hồn Luyện ngục, Cha thương cho chúng sớm thoát khỏi nơi này bởi Cha đã phán: "Ai thương xót thì sẽ được xót thương" (Charity p. 341).

Trong sách bà Ruth trong Cựu ước có lời Chúa phán: "Chúa sẽ thương xót con như con thương người đã chết" (Rt 1,8), bởi khi đã chết họ không lập được công trạng gì để cứu mình nữa, mà còn phải trả nợ tới đồng xu cuối cùng (Mt 5,25). Và có lời khác rằng: "Kẻ không biết thương ai, thì sẽ không được ai thương xót khi bị phán xét" (Gc 2,13).

* Bà Đáng kính Archangela Panigarola, Bề trên một nhà dòng tại Milanô nước Ý, vào lễ các Linh hồn, được Thiên thần bản mệnh dẫn vào Luyện ngục. Tại đây bà thấy bố bà đang đau khổ rên xiết giữa các linh hồn khác. Khi thấy con mình, ông bố vội kêu lên: "Archangela con ơi, sao con quên người cha vô phúc này chịu cực hình nóng nảy ở đây! Con đã cầu nguyện và cứu nhiều linh hồn, còn cha, con mang ơn rất nhiều, con lại bỏ quên". Sơ Archangela rất ngạc nhiên thấy bố phàn nàn như thế, nhưng Thiên thần Bản mệnh nói với bà rằng: "Chúa để vậy, bởi khi còn sống, bố bà đã không tha thiết lo lắng phần rõi linh hồn mình và cũng không có lòng bác ái với các linh hồn Luyện ngục"(Charity p. 342).

Những ai đọc hay nghe các truyện này, nên ân cần lo lắng phần rõi đời đời của mình, và rộng lòng bác ái thương cứu các linh hồn Luyên ngục. Nay ta cứu người, mai người cứu ta. Lời Chúa nhắc nhớ ta rằng: Các ngươi đong cho ai đấu nào, người ta sẽ đong lại cho các ngươi đấu ấy.

Chương mười bảy

NHỮNG PHƯƠNG THẾ TRÁNH LUYỆN NGỤC LÂU DÀI

1. ĂN NĂN SÁM HỐI

Sau khi đã đọc hoặc đã nghe từ đầu cuốn sách này cho tới đây, ta đã biết phải làm gì để tránh chịu thanh tẩy trong Luyện ngục lâu dài. Điều phải gắng trước hết là TRÁNH PHẠM TỘI. Tội trọng chỉ được tha với lòng ăn năn thật và xưng thú cùng linh mục, trừ khi không có thể. Tội nhẹ được tha bằng nhiều cách: Aên năn sám hối, qua Bí tích Hòa giải, qua Bí tích Thánh Thể, qua dấu Thánh giá với Nước thánh. Sách Gương Chúa Giêsu khuyên ta: "Thà gột rửa tội lỗi và khử trừ thói hư ngay bây giờ, còn hơn đợi đến trong kiếp sau" (Q. một, chương 24, đoạn 2)

2. ĐỀN TỘI

Muốn khỏi đền tội lâu dài trong Luyện ngục, chỉ có cách lo đền tội trước ở đời này như Chúa Kitô đã phán: Hãy làm việc khi trời còn sáng, đêm tối đến biết đường đâu mà làm. (Ga 9,4)

Đền tội có thể bằng nhiều cách, như ta đã nghe qua ở các chương trên: Có thể bằng đền trả những xâm phạm bất công về tiền của và danh giá, bằng hy sinh, hãm mình, chịu đau khổ theo thánh Ý Chúa; có thể bằng lãnh ân xá Giáo hội ban, bằng chia sẻ của cải, giúp đỡ tha nhân, yêu mến Chúa (tôn thờ Thánh Thể Chúa và sự Thương khó Chúa), yêu mến Đức Mẹ; xây đắp Giáo hội Chúa ... Ở đây xin nhấn mạnh tới một vài việc:

3. HY SINH, HÃM MÌNH, VUI CHỊU ĐAU KHỔ

Hãm mình là điều rất cần thiết để tiến tới trong đàng nhân đức, và rất cần để đền bù tội lỗi khi được hợp với những đau khổ của Chúa Kitô. Nhờ hãm mình, chịu đau khổ ta cứu được ta và ta cứu được các linh hồn Luyện ngục.

Thánh nữ Catarina thành Siena, theo lời cha Đáng kính Raymond Capua kể lại rằng: Tôi tớ Chúa có lòng rất nhiệt thành cứu các linh hồn, trước hết, tôi xin kể về việc cứu cha của người là ông Giacômô. Ông bố này nhận ra sự thánh thiện của con gái mình nên ông có lòng kính trọng con ông lắm, ông bảo mọi người trong nhà không bao giờ được làm gì trái ý cô, nhưng để cho con tự do làm việc lành phúc đức. Tình cha con ngày một tăng tiến. Catarina kiên tâm cầu nguyện cho phần rõi của cha. Ông Giacômô vui cách tốt lành trong các nhân đức của con, hy vọng nhờ đó ông được ơn trước mặt Chúa.

Ông Giacômô đã chết bởi cơn trọng bệnh, Catarina cầu nguyện xin Chúa là Bạn Trăm năm trên trời của mình cứu chữa cha khỏi bệnh, nhưng Chúa trả lời, Gicômô cha của con phải chết, bởi có sống lâu, ông cũng không ích lợi cho ông. Catarina liền khuyên cha sẵn lòng ra khỏi cuộc đời, thánh nữ cảm ơn Chúa hết lòng và không dám tiếc xót. Nhưng thánh nữ cầu xin Chúa ban ơn tha tội cho cha bà, hơn nữa được Chúa nhận vào Thiên đàng ngay sau khi chết, không phải qua lửa Luyện ngục. Chúa phán: "Cha con đã sống đời tốt lành trong bậc gia đình, đã làm những việc lành đẹp lòng Chúa, cách cư xử với con của cha con làm đẹp lòng Chúa, nhưng sự Công bằng của Chúa đòi cha con phải thanh luyện bằng lửa, để tẩy hết mọi vết nhơ dính bén sự đời". Thánh Catarina van nài: "Lạy Chúa, làm sao con chịu được cảnh người đã nuôi con, dạy con cách yêu thương, đã cư xử tốt lành với con cả cuộc đời phải chịu đau đớn trong lửa nóng nảy như vậy? Con xin Chúa nhân từ vô cùng đừng để linh hồn cha con rời xác đến khi được sạch hoàn toàn để không còn phải qua Luyện ngục...nếu con không xin được ơn này, xin Chúa cho con được chịu đau khổ thay cho cha con tất cả những đau khổ nào vừa Ý Chúa". Chúa trả lời: "BỞI lòng con mến Chúa, Chúa bằng lòng chấp nhận điều con xin, con sẽ phải đau khổ thay cho cha con". Thánh nữ cảm tạ Chúa vô ngần, quay sang phó linh hồn cho cha. Vừa lúc ông Giacômô tắt thờ, thánh nữ bị cơn đau đớn dữ dội lập tức, tưởng phải chết đến nơi, nhưng thánh nữ rất can đảm chịu đựng không hé môi. Người cầu nguyện: Chúc tụng Chúa và mở miệng mỉm cười như nói với cha: Cha ơi, con ước gì được như cha bây giờ. Trong tang lễ, thánh nữ an ủi Mẹ và mọi người cách can đảm. Linh hồn ông Giacômô đã lên Thiên đàng ngay như người trộm lành được ơn tha thứ (Purgatory p. 310-314). Thánh nữ tiếp tục phải chịu đau khổ để bù phần phạt cho cha mình, nhờ đó thánh nữ cũng được tiến cao trên đường nhân đức.

Tác giả Sách Gương Chúa Giêsu khuyên ta: "Ai ngày nay khiêm tốn chịu người đời xét đoán... chịu khinh bởi Chúa Kitô...đến ngày công phán sẽ vui mừng. Lúc đó thân xác bị cầm hãm sẽ nhảy mừng hơn là được nâng niu. Lúc đó chiếc áo thô sẽ tỏa sáng hơn lụa là lộng lẫy. Lúc đó xó lều tranh còn quí hơn lầu vàng. Lúc đó lòng nhìn nhục quí hơn quyền lực thế gian. Lúc đó lương tâm trong sạch quí hơn thông minh xuất chúng" (Quyển một, chương 24, đoạn 3)

4. VÂNG THEO Ý CHÚA ĐÌNH ĐOẠT MỌI SỰ, KỂ CẢ SỰ CHẾT

(Theo G.B. Saint-Jure, S.J. Tin Cậy Chúa Quan Phòng trang 70-73).

Chúng ta còn phải đem sự tuân theo Thánh Ý Chúa vào việc nhận lấy cái chết của chúng ta nữa. Chúng ta sẽ chết, đó là một quyết định không có thể kháng cự được. Chúng ta sẽ chết vào ngày giờ và bằng thứ chết mà Chúa sẽ muốn. Chính cái chết đó Người đã định cho ta phải vui nhận, bởi đó là cái chết Chúa đã xét là hợp với sự vinh quang của Người nhất. Một hôm bà thánh Gertruđê trèo đồi, trượt chân, lăn xuống một thung lịng. Chỗi dậy an lành, bà lại trèo đồi và nói: "Lạy Chúa đáng mến, thực là một phúc lớn cho con, nếu cái ngã vừa rồi đã giúp con một phương tiện tiến đến Chúa sớm hơn". Các chị em đứng chung quanh hỏi: "Lúc đó bà không sợ chết mà không được chịu các phép sau hết sao?". "Ồ, bà thánh trả lời, thực tôi ao ước hết lòng được chịu các Bí tích trong giờ sau hết nhưng tôi còn yêu mến thánh Ý Chúa hơn. Tôi tin chắc rằng sự dọn mình chết tốt nhất và chắc chắn nhất để chết lành là tuân phục Ý Chúa muốn. Cho nên cái chết Chúa muốn cho tôi qua để về cùng Ngài là cái chết tôi mong ước và tôi tin rằng: được sửa soạn như thế, thì dù chết cách nào, sự thương xót của Chúa cũng đến giúp tôi".

Hơn nữa, nhiều nhà tu đạo học nổi danh đã cùng thánh Louis de Blois dạy rằng: Ai trong lúc sắp chết làm một việc tuân theo Ý Chúa hoàn toàn, thì sẽ được giải thoát không những khỏi Hỏa ngục, mà còn khỏi cả Luyện ngục nữa, dù một mình người đó đã phạm hết mọt tội của cả thế gian. Lý do là bởi- thánh Anphongsô nói thêm- kẻ nhận lấy cái chết một cách nhìn nhục hoàn toàn, thì được công nghiệp giống như công nghiệp các thánh tử đạo là những vị đã tự hiến mạng sống mình bởi Đức Chúa Giêsu. Hơn nữa, người đó chết vui vẻ và thỏa mãn, dù ở giữa những đau đớn mãnh liệt nhất.

5. THỰC THI ĐỨC BÁC ÁI

Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã phán với người phụ nữ sám hối rằng: "Chị này nhiều tội nhưng đã được tha thứ cả, bởi chị yêu mến nhiều" (Lc 7, 47). Chúa còn khuyên nhủ "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu" (Lc 16,9). Cụ Tobia trong Cựu Ước cũng khuyên con mình như sau: "Con hãy lấy của con có mà làm phúc, đừng ngoảnh mặt đi trước kẻ nghèo nào. Và nhan Thiên Chúa cũng không ngoảnh đi với con. Có của bao nhiêu, tùy theo số lượng, con hãy lấy mà bố thí. Quả đó là kho tàng con cất cho mình vào ngày túng quỞn chật vật. BỞI chưng việc bố thí giựt khỏi sự chết và không để lâm phải tối tăm. Quả thế, bố thí là lễ tế tốt đối với mọi kẻ lo (bố thí) trước nhan Thượng đế" (Tb 4,7-11- Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn).

* Thánh Phêrô Đamianô đã thuật lại trong sách của người truyện này: Ở thành Rôma có một ông chúa tên là Gioan Patrixi đã qua đời. Cuộc sống của ông, tuy là một người Công giáo, được coi như một người giầu có, khác xa với Thầy Chí Thánh là Chúa Kitô nghèo khó, đau khổ, đội mạo gai, chịu đánh đòn. Tuy nhiên ông ta rất có lòng bác ái thương người nghèo, có khi ông cho cả áo choàng của mình để che thân họ. Ít ngày sau khi ông qua đời, một linh mục thánh thiện, khi đang cầu nguyện, được ơn ngất trí, thấy mình được đưa đến đại thánh đường thánh nữ Cecilia, một trong những thánh đường nổi tiếng ở Rôma. Linh mục thánh thiện này trông thấy vô số thánh nữ đồng trinh từ trời xuống, thánh Cecilia, thánh Anê, thánh Agata và các vị thánh khác vây quanh cỗ kiệu lộng lẫy Đức Nữ Đồng Trinh Maria đang ngự, có các thiên thần và linh hồn hạnh phúc bao quanh.

Vào lúc đó, một người phụ nữ nghèo khó, mặc áo rách rưới, nhưng lại khoác áo choàng lông đắt giá trên vai bà. Bà nghèo này qùi khiêm tốn trước nhan thánh Đức Mẹ, tay chắp, mắt tràn đầy dòng lệ, thân thưa với niềm vui: "Lạy Mẹ Tình thương, nhân danh lòng tốt lành vô biên của Mẹ, con xin Mẹ thương xót người bất hạnh là Gioan Patrixi vừa mới chết, và bây giờ đang chịu cực hình Luyện ngục". Ba lần, người phụ nữ nghèo đều cầu nguyện một lời như nhau, mỗi lần một sốt sắng hơn, nhưng vẫn không được Đức Mẹ trả lời. Bà ta lại van xin: "Lạy Mẹ là Nữ vương rất hay thương xót, Mẹ quá biết, con là kẻ ăn xin ngồi ở cửa đền thánh, xin của bố thí vào mùa đông rét buốt, con không có áo che thân, mà chỉ có manh dẻ rách. Con run rẩy bởi giá lạnh. Thế nhưng khi con xin ông Gioan nhân Danh Mẹ, ông đã đưa áo choàng lông đắt giá đang mặc cho con, không kể gì đến bản thân mình. Ông đã làm việc bác ái anh hùng đó, lại không đáng được Mẹ, Ôi Maria, ban cho chút ân xá sao?". Nghe thế, Đức Nữ vương động lòng thương xót, âu yếm cúi xuống trên người phụ nữ đáng thương đang kêu van nói rằng: "Người mà con đang cầu xin cho đã phải luận phạt một thời gian lâu, với những đau khổ dữ dằn để đền những tội vô số của ông ta, nhưng bởi ông ta có hai nhân đức nổi bật là lòng thương kẻ nghèo khó và lòng tôn sùng các bàn thờ Mẹ, Mẹ sẽ xuống cứu vớt ông ta". Sau những lời này, cả đoàn thánh nhân lộ vẻ vui mừng biết ơn Mẹ Tình Thương. Ông Patrixi được dẫn đến: thân hình xanh xao, hình thù ghê gớm, mang đầy xiềng xích, nhiều vết thương sâu hoắm. Đức Nữ Vương nhìn ông ta một lúc với dạ cảm thương, rồi Người ra lệnh tháo xiềng, mặc cho ông áo vinh quang, cho ông được tham dự vào đám đông đang vây quanh Mẹ. Lệnh được thi hành lập tức và chấm dứt cuộc ngất trí.

Vị linh mục thánh thiện này từ đó đã không ngớt ca tụng Tình Thương Vô biên của Mẹ Maria là Nữ Vương Thương xót. đối với các linh hồn khốn khổ trong Luyện ngục, nhất là những linh hồn đã chân thành tôn kính phụng sự Người, và những ai đã biết thương xót bác ái với những người nghèo khó (Purgatory p. 379-381).

6. KÍNH MẾN ĐỨC MẸ (LẦN HẠT MÂN CÔI, ĐEO ÁO ĐỨC MẸ...)

Truyện sau đây lưu ý ta về lời khuyên của thánh Gioan Vianey xứ Ars bên Pháp, về lòng sùng kính Đức Mẹ và việc lành cầu cho các linh hồn:

* Một linh mục dòng giảng truyền giáo cho các quí bà ở thành Nancy. Trong số các bà, có một bà vẻ mặt âu sầu, mình mặc áo tang đến với cha dòng nói rằng: "Thưa cha, cha khuyên chúng con tin cậy cầu khẩn cho các linh hồn, những gì mới xảy đến cho con minh chứng điều đó. Con có người chồng rất tử tế và dễ thương, dù đời sống của chồng con không có điều gì tội lỗi, nhưng anh ấy lơ là việc sống đạo. Con đã cầu nguyện và khuyên nhủ nhưng không kết quả gì. Trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ, trước khi nhà con qua đời, theo thói quen, con làm một bàn thờ nhỏ trong phòng con và trang hoàng hoa nến để kính Đức Mẹ. Chồng con cứ ngày Chúa nhật là về miền quê, nhưng khi trở lại nhà, anh thường đem về cho con một bó hoa chính anh đã hái, con dùng những bông hoa ấy trang hoàng bàn thờ Đức Mẹ. Anh có biết điều đó hay không? Anh tặng hoa cho vui lòng con? Anh có lòng kính mến Đức Mẹ? Con không biết, chỉ biết rằng anh luôn mang hoa về cho con.

Vào tháng sau, nhà con qua đời, không kịp lãnh các Bí tích cuối cùng trong đạo. Con đau đớn vô ngần, bởi những hy vọng đưa anh về với Chúa đã tiêu tan. Trong nỗi chán chường như vậy, con đâm ra yếu đau, xuống tinh thần rõ rệt. Gia đình con khuyên con nên đi nghỉ ngơi ở miền Nam một thời gian. Khi con đi qua thành Lyon, con muốn qua thăm cha sở xứ Ars, nên con viết thư xin được gặp người, và xin người cầu cho chồng con đã chết bất ngờ, ngoài ra con không nói thêm gì nữa.

Đi tới xứ Ars, vào gặp cha Sở. Con thật hãi hùng khi nghe người nói với con những lời này: "Thưa bà, bà đang lo buồn, bà đã quên những bó hoa chồng bà đã đem về cho bà các ngày Chúa nhật trong tháng Năm phải không?". Thật không thể giấu được nỗi ngạc nhiên khi nghe những lời cha Gioan Vianey vừa nói, người nhắc cho con điều con đã không hề nói với ai, như vậy người chỉ có thể biết nhờ ơn Chúa tỏ ra. Người nói thêm: "Thiên Chúa tỏ lòng thương xót cho những ai tôn kính Mẹ Thánh Người. Vào lúc chết, chồng bà đã thống hối, linh hồn ông đang ở trong Luyện ngục, lời cầu nguyện và việc lành của chúng ta sẽ giải thoát ông khỏi chốn này" (Purgatory p. 274- 275).

* Thánh nữ Brigitta cho biết Đức Mẹ đã nói với bà rằng: " Mẹ là Mẹ các linh hồn Luyện ngục, Mẹ hằng giúp đỡ, giảm bớt những hình khổ cho chúng". Điều này rất thích hợp, bởi Mẹ trần gian khi thấy con mình rơi vào đống lửa sẽ cứu ra ngay lập tức, Đức Mẹ là Mẹ nhân từ bội phần lẽ nào thấy con mình rơi vào lửa Luyện ngục cực khốn khổ, sao lại không cứu giúp. Mẹ thúc giục những con cái còn sống dâng lời cầu nguyện và những việc lành cầu cho các linh hồn, hoặc Đức Mẹ xin Chúa cho các linh hồn Luyện ngục về thế gian xin người sống cứu giúp. Đức Mẹ cũng xuống Luyện ngục để an ủi, giảm bớt hình phạt cho các linh hồn, nhất là những linh hồn mồ côi. Nhiều thánh nhân dạy rằng: Trong các ngày lễ, Đức Mẹ xuống Luyện ngục, và khi Người từ Luyện ngục về trời, Người đem theo nhiều linh hồn về Thiên đàng với Người.

Những người con yêu của Đức Mẹ khi sống siêng năng và sốt sắng đọc kinh Mân côi tôn kính Mẹ, khi chết Mẹ sẽ cứu khỏi Luyện ngục rất sớm.

Những người có lòng tin kính sùng mộ đeo Áo Đức Mẹ (mảnh trước ngực mảnh sau lưng, sau một thời gian có thể đeo ảnh vảy Áo Đức Mẹ thay thế, theo ơn Đức Giáo hoàng Piô 10 ban năm 1910) còn được hứa ban ơn thoát khỏi Luyện ngục sớm hơn nữa. Đức Mẹ đã hứa cùng thánh Simon Stock Bề trên dòng Carmelô ngày 16 tháng 7 năm 1251 rằng: "Những ai sùng kính đeo Áo này sẽ được cứu thoát khỏi Hỏa ngục. Đây là dấu cứu rõi, gìn giữ khỏi bị tiêu diệt, là sự hứa ban bình an và che chở đặc biệt tới mãn đời". Sau khi thánh Simon qua đời được 15 năm, một buổi sáng kia, khi Đức Giáo hoàng Gioan 22 đang cầu nguyện, Đức Mẹ hiện ra mang Áo Đức Mẹ Carmelô và phán: "Nếu những ai là tu sĩ dòng hoặc là người vào hội Áo, bởi tội lỗi mình phải vào Luyện ngục, Mẹ sẽ xuống, như người Mẹ nhân lành vào ngày thứ Bảy sau khi chúng qua đời để cứu vớt chúng và đem chúng về hưởng phúc muôn đời". Những lời vừa qua được công bố trong Tông thư "Sabbatine Bull" công bố ngày 3 tháng 3 năm 1322. Theo Tông thư này, muốn hưởng đặc ân trên phải giữ 3 điều kiện: 1. Ghi tên vào sổ nơi giáo xứ mình và đeo Áo Đức Mẹ, 2. Giữ đức trinh khiết theo bậc mình, và 3. Đọc kinh Tiểu nhật khóa Đức Mẹ hằng ngày, ai không đọc kinh Tiểu nhật khóa Đức Mẹ được, thì phải kiêng thịt các thứ Tư và Thứ Bảy. Linh mục nào có năng quyền có thể thay điều kiện thứ 3 bằng một việc đạo đức khác, ví dụ đọc kinh Mân côi hằng ngày. Bởi ơn ích rất trọng của ơn được cứu khỏi Luyện ngục ngày thứ Bảy (Sabbat), dòng Carmelô đề nghị điều kiện thứ 3 được thay thế bằng việc đọc 7 kinh Lạy Cha, 7 kinh Kính mừng, 7 kinh Sáng Danh. (Purgatory p. 411-412).

Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin cứu rõi các linh hồn.
Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin cứu rõi các linh hồn.
Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin cứu rõi các linh hồn.

Hương Trầm; Tổng hợp