Tết Nhâm Thìn 2012
TẾT ĐẾN
NÓI CHUYỆN VỀ TẾT NGUYÊN ĐÁN
Bước
sang năm mới Dương lịch thì tâm hồn của những người con dân Đất Việt dù ở bắt cứ
nơi đâu cũng bắt đầu nôn nao, nô nức, rộn ràng đón mừng dịp lễ hội lớn nhất
trong năm: Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết
Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, hay chỉ đơn giản là Tết).
"Tết" là chữ Nôm, được mượn từ chữ "Tiết" (節) của Hán Việt mà
đọc trại thành “Tết”. Còn "Nguyên Đán" (
元旦) là hai
chữ Hán Việt.
"Nguyên" (
元)
có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai; còn "Đán" (
旦) có nghĩa là buổi sáng sớm.
Nếu đọc đúng theo ngữ pháp Hán Việt thì phải đọc là “Nguyên Đán Tiết” (
元旦節). Tết Nguyên Đán được
người
Trung Quốc ngày nay
gọi là “Xuân tiết” (春節), “Tân niên” (新年) hoặc “Nông lịch Tân niên” (農曆新年).
Theo lịch sử
Trung Quốc, nguồn gốc
Tết Nguyên Đán có từ đời
Tam
Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại,
nhà Hạ chuộng màu
đen nên chọn
tháng giêng, tức
tháng Dần.
Nhà
Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức
tháng chạp, làm
tháng đầu năm.
Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn
tháng Tý, tức
tháng
mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ
"
tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất,
giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.
Đến đời
Đông
Chu,
Khổng Tử đổi
ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời
nhà Tần (
thế kỷ 3
TCN),
Tần Thủy
Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức
tháng mười.
Đến thời
nhà Hán,
Hán Vũ
Đế (
140
TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức
tháng giêng. Từ đó
về sau, không còn
triều
đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Vì chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc
(
nằm trong thế giới Hán hóa) nên Việt Nam cũng có Tết Nguyên Đán vào
tháng giêng. Hiện nay dân chúng chỉ ăn tết vài ngày đầu tháng giêng (
ba ngày
Tết, bảy ngày Xuân).
Khi chưa có sự du nhập của văn hóa Tây phương thì Việt Nam theo
cách tính lịch của Trung Quốc, ta hay gọi là Âm lịch (tính theo chu kì mặt
trăng). Tên gọi của năm Âm lịch không gọi theo số như Dương lịch (tính
theo chu kì mặt trời) mà dùng tên ghép gồm hai chữ. Chữ đầu là một trong 10
thiên can (Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Chữ
thứ nhì là một trong 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão hay Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Mười hai địa chi là tên 12 con vật. Vì bội số
chung của 10 (thiên can) và 12 (địa chi) là 60, nên cứ 60 năm thì hết một chu
trình kết hợp giữa các thiên can và địa chi. Cho nên, cứ 60 năm thì tên gọi các
năm lặp lại như cũ.
Theo chu trình thì năm nay là sự kết hợp thứ 29 giữa
thiên can Nhâm (壬 : thủy dương) và địa chi Thìn (辰 : con rồng). Bởi thế, Âm lịch
năm nay được gọi là năm Nhâm Thìn (壬辰).
Vì có một lịch sử lâu đời, và do sự ảnh hưởng của nhiều luồng
văn hóa khác nhau, nên hình thức đón tết của người Việt thật đa dạng và phong
phú. Tùy theo hoàn cảnh và nhận thức có khác nhau nên mỗi địa phương hay mỗi
Nhóm người có những nét chung và những nét đặc trưng riêng biệt để đón
tết.
Ví dụ: Mọi nhà đều sửa sang, quét dọn, trang trí
Bàn thờ, sắm sửa đồ dùng, ăn mặc quần áo mới …. Tuy nhiên, ngoài Bắc thì chưng
hoa đào, còn trong Nam thì chưng hoa mai; người Công Giáo không đưa ông Táo về
Trời hay xin xăm đầu năm, nhưng có Lễ Giao thừa, Lễ mồng một – cầu bình an cho
năm mới, Lễ mồng hai – kính nhớ Tổ tiên và Ông bà Cha mẹ, Lễ mồng ba – thánh hóa
công ăn việc làm, có bốc lộc Lời Chúa đầu năm …
Ngoài những thích nghi với văn hoá dân tộc của Phụng vụ nói
chung, hiện nay một số nhà thờ vào dịp tết cũng có treo câu đối, hoành phi, hay
chỉ trang trí theo hình thức câu đối, hoành phi ở gian cung thánh. Câu đối được
xem là
tinh
hoa của văn hóa
chữ Hán, người
Trung
Quốc quan niệm: "
nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là
tinh hoa của tinh hoa". Bởi thế, câu đối thể hiện được sự tinh tế cao sâu
về nội dung và sự cao sang, trang trọng về hình thức cũng như diễn tả cốt cách,
phong thái và tâm hồn của người viết. Nếu sử dụng một câu đối cao sâu về tư
tưởng và bài trí thích hợp thì tạo ấn tượng khó quên và dễ đi vào lòng người. Do
đó, việc thích nghi dùng câu đối trong trang trí phụng vụ, nơi trang nghiêm và
thánh thiêng vào dịp Tết dân tộc âu cũng là việc nên làm.
Vì nhiều lý do mà nét văn hoá viết và bài trí câu đối dường như
đã mai một theo thời gian. Hiện nay, để viết, cảm nhận và trang trí câu đối cho
đúng gặp rất nhiều khó khăn. Xin được trình bày đôi nét về câu đối.
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm
biểu thị lý tưởng, ý chí, quan điểm, tình cảm của người viết trong một bối cảnh,
biến cố, môi trường sống. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau,
hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của
Văn
học Trung Quốc và
Việt
Nam.
Câu đối có nguồn gốc từ người
Trung Quốc. Người
Trung Quốc gọi câu đối là “đối liên” (
對聯). “liên” (
聯) có khi
đọc là liễn, có nghĩa là câu đối. Tên gọi xưa của câu đối là “đào phù” (
桃符).
Cách viết: Khi viết câu đối, nếu chọn được câu
chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối
cân.
- Đối ý: hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành 1 cặp sóng đôi.
- Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh âm và từ loại:
- Về thanh âm: thanh
bằng đối với thanh
trắc và ngược lại.
- Về từ loại: thực tự (tự là chữ) phải đối
với thực tự; hư tự phải đối với
hư tự; danh từ phải
đối với danh từ, động
từ phải đối với động từ …
Nếu vế đối này có dùng chữ Hán Việt thì vế kia
cũng phải dùng chữ Hán Việt ...
- Đối vế: Một câu đối gồm hai vế sóng đôi. Nếu câu đối do một người sáng tác
gọi là vế trên và vế dưới. Nếu một người nghĩ ra một vế để
người khác làm vế kia đối lại thì gọi là vế đề và vế đối.
Số chữ trong câu đối không nhất định là bao nhiêu chữ. Theo số
chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
câu tiểu
đối (là những câu 4 chữ trở xuống),
câu đối
thơ (là những câu làm theo lối đặt câu của thể
thơ
ngũ ngôn hoặc
thất
ngôn),
câu đối phú (là những câu làm theo các lối
đặt câu của thể phú, gồm có:
song quan, cách cú, gối hạc hay hạc
tất).
Cách treo: Khi một câu đối do một người làm ra
cả hai vế, thì chữ cuối cùng của vế trên (khi treo là câu bên trái
của người đọc) là thanh trắc; còn chữ cuối cùng của vế dưới (khi
treo là câu bên phải của người đọc) là thanh bằng.
Ví dụ: Tân Xuân Thánh Thiện
(vế trên, treo bên trái của người đọc – thanh trắc)
Năm Mới Phát Tài (vế
dưới, treo bên phải của người đọc – thanh bằng)
Lưu ý: Nếu là câu đối hoàn toàn chữ Hán thì vế
trên (vế đề - chữ cuối thanh trắc) phải treo bên
phải của người đọc (vì người Trung Quốc ngày xưa viết
từ phải qua).
Xin được trích dẫn một số câu đối được sử dụng vào dịp Tết trong
tuyển tập “Câu Đối” của Trần Quang Chu:
- Tết Bình An Vạn Sự Như Ý
Xuân Thánh Thiện Ơn Chúa Thỏa Lòng
- Năm Cũ Bước Qua Bao La Ân Sủng Chúa
Năm Mới Bước Lại Rộng Rãi Nghĩa Tình
Người
- Xuân Thánh Thiện Chúa Thương Gia Đình Thuận Thảo
Tết Đạo Đức Mẹ Giúp Giáo
Xứ Thịnh Cường
- Xuân Lại Đến Nhớ Mùa Xuân Trên Thiên Quốc
Tết Lại Về Mơ Tết Nhứt Trên
Nước Chúa Hiển Vinh
- Vui Tết Đến Ơn Chúa Phát Tài Phát Lộc
Mừng Xuân Sang Lộc Thánh Gặp Phước
Gặp Lành
- Mừng Xuân Vạn Sự Như Ý Chúa
Vui Tết Mọi Bề Đẹp Ý Cha
- Xuân Về Thêm Tuổi Thêm Nhân Đức
Tết Đến Thêm Phúc Thêm Khôn Ngoan
- Một Năm Qua Chúa Thứ Tha Bao Lỗi Lầm Thiếu Sót
Một Năm Mới Con Cám Đội
Bao Hồng Ân
Cuối cùng xin kí́nh gởi đến mọi người lời kính chúc Năm
Mới Nhâm Thìn qua câu đối:
Tân Niên Đến Chúa Ban Bình An Cho Nhân Loại
Nhâm Thìn Về Mẹ Giữ Hạnh Phúc Với Đàn Con
Thomas Nguyễn Văn Hiệp 14-1-2012
Thomas
Nguyễn Văn Hiệp- dongcong.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét