Suy tư về Năm Đức Tin: Tin nghĩa là gì?
„Tin“ là một từ được sử dụng rất thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày và có nghĩa là „không biết gì cả.“ Từ „tin“ muốn diển tả thái độ không chắc chắn về một điều nào đó mà người ta chỉ nghĩ tưởng hay dự đoán, chứ không thể khẳng định một cách chắc chắn được. Như vậy, đối ngược với „tin“ cách mơ hồ là „biết“ cách chắc chắn. Vì thế nhiều người cho rằng một điều được bảo đảm một cách chắc chắn khoa học thì đáng cho chúng ta tin cậy. Khoa học khơi dậy nơi ta lòng cảm phục, ví dụ: sự thành công của Y khoa trong các ca ghép tim hay kỹ thuật của khoa học không gian đã giúp con người đổ bộ được lên mặt trăng.
Trong những trường hợp này „tin“ có nghĩa là một điều còn mơ hồ, thiếu rõ ràng chắc chắn. Nhưng „tin“ cũng có thể là một điều gì đó xác thực và bền vững. Trong bài thơ „Bürgschaft“ (Bảo chứng) của ông, thi sĩ thời danh người Đức Friedrich Schiller trình bày câu chuyện: Có một người ám sát ông tỉnh trưởng và bị bắt. Nhưng tên tội phạm còn có bổn phận phải gả chồng cho em gái của y, vì thế trước khi bị hành hình, tên tội phạm đã xin được tại ngoại ba ngày để chu toàn bổn phận đối với em gái anh ta. Và anh ta đã lấy người bạn của mình để làm bảo chứng cho lời hứa không bỏ trốn. Quả thật, nguyện vọng của anh ta được chấp nhận. Vì tên tử tù đã không trốn thoát, nên Schiller đã kết thúc bài thơ với những lời này: Sự trung tín không phải là một ảo tưởng trống rỗng.
Như vậy, „tin“ cũng có thể là một động lực khiến người ta nói: Tôi tin cậy nơi anh. Thái độ tâm lý này được thể hiện trong tình bạn hữu, trong hôn nhân, trong gia đình và là một điều cao cả và có bảo chứng chắc chắn. Dĩ nhiên, điều kiện để đạt tới một sự gắn bó đáng tin cậy như thế thì đòi hỏi phải có một tình yêu mạnh mẽ và sâu đậm hỗ tương giữa các đối tác ấy. Và nếu tình yêu hỗ tương ấy càng được cho đi và trao lại giữa các đối tác, tức vừa yêu và vừa được yêu, thì nó càng trở nên sâu đậm và bền chặt hơn. Tình yêu chân thật thường không xuất hiện lúc khởi đầu, nhưng vào cuối một sự phát triển lâu dài với những cảm nghiệm trong nhiều khía cạnh và lãnh vực khác nhau. Trong tiếng La-tinh „tin“ là „credere“,và do hai từ „Cor“ có nghĩa là “trái tim” và “dare” có nghĩa là „cho“ hay „ban tặng“ ghép lại. Vậy, khi nói: Tôi tin: „credo“, thì có nghĩa là „tôi ban tặng trái tim của tôi“ cho một ai đó, tức tôi yêu và tin cậy người ấy. Trong tình yêu, việc cho đi và trao lại hỗ tương của các đối tác là một thực tại cần thiết, bất khả nhượng.
Tình yêu cho đi và trao lại một cách đầy tin cậy giữa các đối tác cũng tương tự như mặt trăng: Nó không dừng lại một chỗ, nhưng nó xoay vần và thay đổi không ngừng: Hoặc tròn, hoặc khuyết hay bị phủ tối hoàn toàn trong một lúc nào đó (nguyệt thực). Người ta cũng có thể so sánh con đường dẫn tới đức tin cũng giống như con đường dẫn đưa dân Do-thái tiến về đất hứa: phải trải qua sa mạc đầy thử thách, lúc lên núi dốc lúc lại xuống thung lũng hay đồng bằng. Nhưng qua Kinh Thánh Cựu Ước, đặc biệt qua Sách Xuất Hành, người ta nhận thấy được một điều đã xảy ra quá hiển nhiên trong cuộc hành trình tiến về miền đất hứa đầy gian lao thử thách của con cái Ít-ra-en là nếu họ biết tin tưởng và tuân phục các huấn lệnh của Thiên Chúa thì họ được hoàn toàn an vui, được hạnh phúc, không một kẻ thù nào có thể xâm phạm hay chiến thắng được họ. Nhưng nếu họ phản nghịch chống lại Thiên Chúa thì lập tức mọi tai ương và bất hạnh lại ập xuống trên họ ngay.
Trong lãnh vực tôn giáo tín ngưỡng, đức tin được xác định qua sự nhìn nhận và sự tuân phục. Qua đức tin, tình yêu Thiên Chúa ban cho tạo vật nói chung và cho con người nói riêng sự tự do và sự thanh thản nội tâm. Thiên Chúa không bao giờ ép buộc bất cứ ai, dù đó là sự hạnh phúc và sự cứu rỗi cho họ. Vì thế, đức tin có nghĩa là sự chấp nhận và tuân phục hoàn toàn tự nguyện.
Sự mở rộng mối tương quan
Nếu đức tin là một sự tương quan đầy tin cậy, thì câu hỏi được đặt ra là: Ai là người khởi xướng sự tương quan ấy? Phải chăng chính con người đã khởi xướng sự tương quan ấy, hầu để có thể tưởng rằng chính con người cũng sẽ chấm dứt nó bất cứ lúc nào?
Không. Sự khởi đầu bao giờ cũng xuất phát từ Thiên Chúa. Người kêu gọi Abraham từ bỏ quê hương để đến định cư ở một miền đất xa lạ do Người chỉ định; Người cũng yêu cầu Môsê hãy dẫn đưa Dân Người ra khỏi Ai-cập và tiến về đất hứa; Người đã kêu gọi các Tiên Tri và sai họ đến với Dân Người để dạy dỗ họ và sau cùng Người đã sai Con Một Người xuống thế để cứu chuộc toàn thể nhân loại.
Tự thân phận phàm nhân đầy yếu hèn và tội lỗi của mình, con người không thể khởi xướng mối tương quan đức tin với Thiên Chúa toàn năng toàn thiện được, như lời thánh Gioan Tông Đồ đã viết: „Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta.“ (1Ga 1,8) Tất cả mọi tình yêu con người đối với Thiên Chúa chỉ là sự đáp trả tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mà thôi, vì Thiên Chúa yêu thương con người trước, chứ không phải con người yêu Thiên Chúa trước (x. Ga 15,16). Vâng, chính „Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.“ (1Ga 4,19)
Mối tương quan này do Thiên Chúa khởi xướng trước và Người cũng đã nâng cao nó thành một giao ước. (x. Gr 31,31-34; Dt 10,16) Và còn hơn thế nữa, Thiên Chúa còn gọi giao ước giữa Người và nhân loại là một „hôn ước vĩnh cửu.“(Hs 2,21) Ngay trong Cựu Ước Thiên Chúa đã thiết lập với Tổ phụ Abraham và dân Ít-ra-en một giao ước và niêm phong nó đến muôn đời qua „một giao ước mới và vĩnh cửu“ nhờ vào Con Một Người: Sự khổ nạn thập giá của Đức Giêsu Kitô đã được Thiên Chúa Cha chấp nhận khi Người cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Theo Đức Giêsu có nghĩa là sống trong cộng đoàn đức tin
Để khởi sự các hoạt động công khai của Người, Đức Giêsu đã kêu mời các Môn Đệ bước theo Người: „Khi Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là Si-mon, cũng được gọi là Phêrô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Đi được một quãng nữa, Người lại thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.“(Mt 4,18-22)
Sự trình bày về việc kêu gọi các Môn Đệ ở trên đây cũng như ở các nơi khác (x Mt 8,10; Mc 1,16tt; 2,14; Lc 5,28; Ga 1,43) đã cho thấy rằng Đức Giêsu đã kêu gọi các Môn Đệ một cách quyết đoán. Và ngược lại, các Môn Đệ cũng đã bỏ lại „tất cả“ (Lc 5,11) và đã „lập tức“ đi theo Người (Mt 4,20.22; Mc 18,20), chứ không hề thắc mắc hay so đo và lý luận dài dòng, chẳng hạn như: Tại sao Thầy lại nảy ra ý tưởng kêu gọi con? Thầy sẽ không đòi hỏi nhiều khi con theo Thầy chứ? Từ đâu Thầy lại đưa ra đòi hỏi này? v.v… Nếu con người có một đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, tức hiểu biết được Người là ai và hoàn toàn tín thác vào Người thì những câu hỏi này không còn cần thiết nữa, vì khi Thiên Chúa kêu gọi thì Người đã biết rõ tại sao. Khi Đức Giêsu kêu gọi ai thì Người cũng ban cho người ấy sức mạnh để bước theo Người. Chỉ cần tin tưởng phó thác và yêu mến Người mà thôi. Và tất cả những người cùng chung một chí hướng và một tâm tình bước theo Đức Giêsu như thế, sẽ tạo nên một cộng đoàn liên đới huynh đệ bền vững trong đức tin, đó chính là Hội Thánh của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã có lý khi quả quyết: „Những ai tin thì không bao giờ lẻ loi một mình.“
Đức tin vượt lên sự hiểu biết
Như đã nói trên, nhiều người cho rằng sự hiểu biết chính xác và chắc chắn thì giá trị hơn là tin tưởng cách mơ hồ về một điều mà họ coi như là không biết được gì cả. Nhưng trong nghĩa tín ngưỡng thì sự hiểu biết ấy chỉ tựa như một bức phóng họa so với „đức tin.“ Điều đó muốn nói rằng quan điểm về „đức tin“ vượt cả lên sự hiểu biết, vì sự hiểu biết còn nằm trong phạm vi trí năng, trong khi sự tin cậy động chạm đến toàn diện con người trong toàn bộ „thể xác-linh hồn-tinh thần“ và tìm vươn tới chiều kích siêu nhiên.
Chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu lại chỉ hiện ra với các Môn Đệ của Người, chứ không hiện ra với tất cả mọi người. Nếu chúng ta có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi ấy, thì bấy giờ sẽ không một ai còn cần phải vất vả vật lộn với nỗi khắc khoải về đức tin nữa. Về điểm này Sách Công Vụ Tông đồ viết: „Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những nhân chứng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những người đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng và làm chứng cho dân…“(Cv 10,40-42).
Vì Đấng Phục Sinh không hiện ra với tất cả mọi người, hay nói cách khác: vì Người không muốn dùng áp lực tâm lý để bắt ép mọi người phải tin nhận Người, bởi vậy, các Môn Đệ phải rao giảng về Người và để lời rao giảng của mình khả tín trước mặt mọi người, các Môn Đệ phải nỗ lực cải thiện cuộc sống mình mỗi ngày. Dĩ nhiên, sự khả tín là một thách đố nặng nề, nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn của người Môn Đệ, chứ không chỉ dừng lại nơi sự loan báo và trình bày sự việc một cách thuần lý. Sự khả tín đòi hỏi sự dấn thân toàn diện con người: sự hiểu biết, sự xác tín, sự tin cậy, tình yêu tuyệt đối và sự hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình. Tất nhiên, đó không phải là thái độ quá khích mù quáng, nhưng sự xác tín đầy ý thức về một chân lý quá hiển nhiên, tựa như khi người ta đang sống giữa trưa dưới ánh sáng chói lọi của mặt trời thì không thể phủ nhận và cho đó là đêm tối được. Trong khi đó sự hiểu biết thuần túy thì phải dựa trên những luận chứng thuần lý, và vì thế chưa động viên được toàn diện con người, tức chưa thuyết phục được con người trọn vẹn, nghĩa là con người chưa hoàn toàn chấp nhận đứng sau sự hiểu biết ấy, đến nỗi có thể đánh đổi chính mạng sống mình như trong lãnh vực đức tin, mà gương anh hùng tử đạo của hàng triệu các Kitô hữu từ trên hai ngàn năm nay đả minh chứng. Vâng, Đức tin đòi hỏi nơi con người sự dấn thân trọn vẹn.
(còn tiếp)
Sơ lược các diễn biến của Công Đồng Vatican II (2)
Lm Nguyễn Hữu Thy10/15/2012
Sơ lược các diễn biến của Công Đồng Vatican II (2)Tóm tắt
Những tài liệu trên đây của Công Đồng đề cập một cách đặc biệt tới việc áp dụng thực tiễn đức tin Công Giáo vào trong các lãnh vực khác nhau của cuộc sống:
• Lễ nghi: Từ các định hướng của Hiến chế về phụng vụ Sacrosanctoum Concilium, hai canh tân về phụng vụ được hiện thực: Vào năm 1965, việc áp dụng Sách Lễ Roma mới là bước canh tân phụng vụ đầu tiên. Tiếp đến, năm 1969 việc áp dụng Sách Lễ Roma còn quan tâm đặc biệt đến sự đòi hỏi của Hiến chế Sacrosanctum Concilium là phải nâng số các Bài Đọc trích từ Kinh Thánh nhiều hơn, hầu các tín hữu có dịp nghe và sống lời Chúa hơn nữa. Vì thế, một sự sắp xếp các bài Kinh Thánh theo một chu kỳ hoàn toàn mới, như chúng ta thực hành ngày nay. Nhưng trước những canh tân này, ngôn ngữ địa phương của cộng đoàn phụng vụ đã được sử dụng để thay thế cho tiếng La-tinh, một vấn đề mà Hiến chế về Phụng Vụ đã không dự trù trước. Qua đó, chương trình cải tổ phụng vụ một cách tiệm tiến theo từng giai đoạn đã mất hết mục đích. Hơn nữa, một số giáo sĩ và dân chúng đã từ lâu không còn muốn sử dụng nghi thức dâng Thánh Lễ cũ, nên ngay từ năm 1964 đã tự áp dụng tại nhiều nơi một nghi thức „mới“ do „tùy hứng“ sáng chế ra. Đối mặt với tình trạng này, chính cả Sách Lễ chính thức Missale Romanum Paul VI cũng chỉ có thể được sử dụng từ từ mà thôi, mãi đến hôm nay việc áp dụng Sách Lễ này tại nhiều nơi vẫn chưa hoàn toàn trọn vẹn.
• Tương quan với các tôn giáo khác: Kể từ Công Đồng Vatican II, một tương quan mới giữa Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo khác đã được hình thành và phát triển. Từ Công Đồng trở về trước, Giáo Hội Công Giáo tự coi mình là Giáo Hội chân chính duy nhất, nhưng sau Công Đồng, quan điểm này đã được dè dặt tương đối hóa. Sự cắt nghĩa này được dựa trên nền tảng của Sắc lệnh Unitatis Redintegratio (đối với các Giáo phái khác thuộc Kitô giáo) và Tuyên ngôn Nostra Aetate (đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo). Trong Sắc lệnh về tự do tôn giáo Dignitatia Humanae viết: “Trước hết Thánh Công Đồng tuyên bố rằng chính Thiên Chúa đã chỉ cho nhân loại biết con đường, để nhờ đó, trong khi phụng thờ Người, con người có thể được cứu rỗi và hạnh phúc trong Đức Kitô. Chúng tôi tin rằng Tôn Giáo chân thật, duy nhất này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội mà Đức Giêsu đã ủy thác nhiệm vụ truyền bá cho mọi người.“(12)
• Tương quan với mỗi người: Công Đồng công nhận quyền tự do của mỗi người trong vấn đề chọn lựa niềm tin tín ngưỡng của mình, dù cho sự chọn lựa ấy đi ngược lại đức tin Công Giáo. Trong Sắc lệnh về tự do tôn giáo Dignitatis Humanae Công Đồng dạy: “Tất cả mọi người đều có nhiệm vụ tìm kiếm chân lý, nhất là những chân lý có liên quan tới Thiên Chúa và Giáo Hội Người, và khi nhận biết rồi, họ phải tin theo và tuân giữ. Cũng thế, Thánh Công Đồng còn tuyên bố rằng những bổn phận này liên quan đến lương tâm con người cũng như ràng buộc lương tâm con người, và chân lý tự nó có sức mạnh ép buộc, chứ không dựa trên một uy quyền nào khác, sức mạnh ấy ăn sâu vào trong tâm hồn một cách vừa êm dịu vừa mãnh liệt.“(13)
• Tương quan với các nhà nước: Công Đồng không còn đòi hỏi các sinh hoạt công cộng trong xã hội và các nhà nước phải hành động theo đúng nguyên tắc của Giáo Hội công Giáo nữa. Điều đó muốn nói rằng sự đòi hỏi ấy vẫn tồn tại, vì Giáo Hội Công Giáo là „Giáo Hội chân thật và duy nhất“ như đã nói trong Sắc lệnh về tự do tôn giáo Dignitatis Humanae, nhưng sự đòi hỏi của Giáo Hội được định nghĩa theo nghĩa tinh thần thiêng liêng, chứ không theo nghĩa của một ý thức hệ toàn trị.
Các thành phần tham dự
Tổng số các tham dự viên hiện diện trong Công Đồng là 3.044 vị. Trong số đó có 2.498 Nghị Phụ, gồm các Hồng Y, Thượng Phụ, Tổng Giám Mục và Giám Mục; ngoài ra còn có các quan sát viên của các Giáo phái Kitô giáo, các nhà thần học làm cố vấn cho Công Đồng, các giáo dân.
Các tham dự viên Công Giáo thời danh
Trong số các Nghị Phụ và các cố vấn Công Đồng, có một số các nhân vật thời danh sau:
• Augustin Bea SJ: Hồng Y, chủ tịch Văn phòng cổ vũ sự hợp nhất Kitô giáo.
• Michael Browne OP: Hồng Y, giữ trách nhiệm điều hành việc phác họa các lược đồ.
• Yves Congar OP: Linh Mục, cố vấn thần học, về sau được phong Hồng Y.
• Julius Döpfner: Hồng Y, TGM München và Freising (Đức), cùng điều hành Công Đồng.
• Giovanni Franzoni: Viện Phụ Dòng Biển Đức.
• Josef Frings: Hồng Y, TGM Köln (Đức).
• Alois Grillmeier: Linh Mục, cố vấn thần học, về sau được phong Hồng Y.
• Wihelm Kempf: Giám Mục Limburg (Đức), Thư ký.
• Franz König: Hồng Y, TGM Wien (Áo).
• Helmut Krätzi: Giám Mục phó Wiên (Áo), tốc ký trong các khóa họp.
• Hans Küng: Linh Mục, giáo sư, cố vấn thần học.
• Marcel Lefèbvre CSSp: TGM Dakar nghỉ hưu, về sau là một trong những người chỉ trích Công Đồng quá khích nhất.
• Giacomo Lercaro: Hồng Y, cùng điều hành Công Đồng.
• Henri de Lubac SJ: Linh Mục, giáo sư, cố vấn thần học, về sau được phong Hồng Y.
>• Albino Luciani: Hồng Y, GM Vittorio Veneto (Ý), về sau là Giáo Hoàng Gioan Phaolô I.
• Giovanni Battista Montini: Hồng Y, TGM Milan (Ý), thành viên của Ủy Ban, về sau là Giáo Hoàng Phaolô VI.
• Alfredo Ottaviani: Hồng Y, chủ tịch Ủy Ban của Công Đồng.
• Joseph Pascher: Linh Mục, giáo sư, cố vấn thần học.
• Karl Rahner SJ: Linh Mục, giáo sư, cố vấn thần học.
• Joseph Ratzinger: Linh Mục, giáo sư, cố vấn thần học, hiện là Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI.
• John M. Oesterreicher: Đức Ông, cùng với HY Bea là cha đẻ của Sắc lệnh Nostra Aetate.
• Michael Schmaus: Linh Mục, giáo sư, cố vấn thần học.
• Otto Spülbeck: Giám Mục Meißen (Đức).
• Sebastian Tromp SJ: Linh Mục, giáo sư, Thư ký của Ủy Ban Công Đồng.
• Karol Wojtyla: Hồng Y, TGM Krakau, về sau là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Trong số các tham dự Công Giáo thời danh cũng cần phải kể hai giáo dân đặc biệt đã được phát biểu tại Công Đồng là Jean Guitton, triết gia và văn hào người Pháp và Vittorino Veronese, người Ý, Tổng thư ký cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc.
Những quan sát viên ngoài Công Giáo
• Frère Roger: Người thành lập và Bề Trên Tu Viện Đại Kết Taizé tại Pháp.
• Frère Max Thurian: Thần học gia, Bề Trên Tu Viện Đại Kết Taizé, về sau trở lại Công Giáo.
• Lukas Vischer: Quan sát viên chính thức của Văn phòng các Giáo Hội Kitô giáo đại kết.
• George Lindbeck: Quan sát viên chính thức của Hiệp Hội Tin Lành Luther trên thế giới.
• Edmund Schlink: Quan sát viên chính thức của Giáo Hội Tin Lành tại Đức.
• Oscar Cullman: Một Tông đồ đại kết thời danh, được mời với tính cách cá nhân.
• Karl Bernhard Ritter: Quan sát viên của Huynh Đoàn Michael thuộc Giáo Hội Tin Lành.
Tòa Thượng Phụ Chính Thống Konstantinopel (Istanbul) và các Giáo Hội Chính Thống khác đã thông báo vào ngày 5.10.1962 là họ sẽ không gửi quan sát viên chính thức tới Roma. Quyết định này cũng được Đức Thượng Phụ Alexej I, Tòa Thượng Phụ Chính Thống Mạc-tư-khoa, đồng ý. Tuy nhiên, về sau Tòa Thượng Phụ Mạc-tư-khoa đã gửi quan sát viên chính thức tới Roma. Chúng ta biết rằng, khác với Giáo Hội Công Giáo Roma, các Giáo Hội Chính Thống ở mỗi nước theo qui chế tự trị, chứ không theo hệ thống Trung Ương như Giáo Hội Công Giáo.
Tinh thần Công Đồng
Thánh Công Đồng Chung Vatican II được coi là một biến cố quan trọng nhất của thế giới Kitô giáo nói chung và của Giáo Hội Công Giáo nói riêng trong thế kỷ XX. Người ta – người ủng hộ cũng như kẻ chống đối – thường gọi những gì xảy ra vào thời hậu Công Đồng là „tinh thần Công Đồng“: Những người ủng hộ thì gọi một cách tích cực là „Kết quả của Công Đồng“ còn những người phê bình thì lại gọi một cách tiêu cực là „Hậu quả của Công Đồng“, tức người ta đánh giá cách thức áp dụng các giáo huấn của Công Đồng trong các Hiến chế, Sắc lệnh và Tuyên ngôn vào trong đời sống Giáo Hội một cách đúng đắn hay lệch lạc.
Nhưng một điều quá hiển nhiên, không thể chối cãi được, đó là Thánh Công Đồng Chung Vatican II đã đưa ra những canh tân và đổi mới hết sức cần thiết trong đời sống Giáo Hội, ví dụ:
• Phương diện mục vụ: Công Đồng củng cố vai trò mục vụ của Giáo Hội đối với thần học. Công Đồng không quan tâm tới những tranh cãi về các khuynh hướng thần học riêng rẽ, nhưng mong muốn đức tin mang lại hoa quả thực tiễn cho đời sống Kitô giáo.
• Phương diện lịch sử: Công Đồng quan tâm và cổ vũ tinh thần nghiên cứu và tìm kiếm sự thật trong quá khứ.
• Phương diện Kinh Thánh: Kinh Thánh là chuẩn điểm của Đức tin.
• Phương diện Giáo Phụ: Công Đồng nhìn nhận các Giáo Phụ là những chứng nhân đặc quyền của Tông truyền trong việc chú giải chứng tích thuộc Kinh Thánh.
• Phương diện đại kết: Mở cửa giao lưu gặp gỡ các Giáo Hội Kitô giáo anh em. Bằng chứng là các quan sát viên ngoài Công Giáo đã được mời tham dự Công Đồng.
• Mở cửa với thế giới: Xin xem Hiến chế Gaudium et Spes.
• Đối thoại với các tôn giáo ngoài Kitô giáo: Nhìn nhận những giá trị đạo đức và tôn giáo ngoài Giáo Hội.
• Cách thức rao giảng mới mẻ và nhằm đối thoại: Thay vì sử dụng các công thức kết án và ra vạ, cách thức công bố các giáo huấn của Giáo Hội sẽ được soạn thảo một cách tích cực hơn.
Tất nhiên, những canh tân hợp lý và cấp bách trên đây là một biểu lộ minh nhiên tinh thần chân chính của Công Đồng. Theo ý kiến của các Đức Giáo Hoàng từ năm 1965 thì chỉ những kẻ không hiểu được tinh thần Công Đồng một cách đúng đắn mới dựa vào Công Đồng để cho rằng các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội đã bị loại bỏ khỏi mọi tài liệu của Công đồng.
Thực ra, Công Đồng không chủ trương phá bỏ, nhưng là hoàn thiện và canh tân các truyền thống cũng như cách thức sống đức tin của Giáo Hội cho phù hợp với sự hiểu biết và não trạng con người hôm nay, để họ có thể đón nhận được Tin Mừng cứu rỗi mà Giáo Hội hằng rao giảng.
Khủng hoảng thời hậu Công Đồng
Ý niệm „khủng hoảng thời hậu Công Đồng“ trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo, người ta chỉ có thể nhận định là đã xảy ra vào khoảng từ năm 1965 đến 1985, chứ không thể xác định một cách rõ ràng thời gian bắt đầu và kết thúc, vì ngay trong hiện tại đã sau 50 năm, người ta vẫn chưa hết hiểu lầm hay hiểu chưa đúng về Công Đồng.
Người ta cũng phỏng đoán là ý niệm „la crise post-conciliaire“ phát xuất trước tiên tại Pháp, một nơi tình hình chính trị về tôn giáo không chỉ mới bùng nổ dữ dội từ năm 1965 mà thôi. Điều đó muốn nói đến hiện tượng việc sống đạo sa sút trầm trọng và vấn đề kỷ luật bị thả lỏng trong Giáo Hội Công Giáo Pháp. Trên thực tế, hiện tượng tôn giáo xuống dốc này ở Pháp là hậu quả tất yếu của hiện tượng tục hóa đang bành trướng khắp nơi, đặc biệt ở các nước Tây Âu. Nhưng dĩ nhiên sự khủng hoảng tôn giáo này không phải là không có liên can gì tới những khủng hoảng tôn giáo đã xuất hiện vào thời tiền Công Đồng Vatican II. Đây là vấn đề mà ĐTC Phaolô VI đã từng đề cập tới vào năm 1970 trong tập tài liệu „Quinque jam anni.“
Trong một bài phát biểu bộc phát, ĐTC Phaolô VI đã nói đến một „Giáo Hội tự hủy hoại mình.“(148). Trong một bài tường thuật bài phát biểu của Đức Thánh Cha tại Chủng Viện Lombardo vào ngày 7.12.1968 đã ghi lại nguyên văn như sau: „Che cosa vedete nel Papa?». E risponde: Signum contradictionis: un segno di contestazione. La Chiesa attraversa, oggi, un momento di inquietudine. Taluni si esercitano nell’autocritica, si direbbe perfino nell’autodemolizione. È come un rivolgimento interiore acuto e complesso, che nessuno si sarebbe atteso dopo il Concilio. Si pensava a una fioritura, a un’espansione serena dei concetti maturati nella grande assise conciliare. C’è anche questo aspetto nella Chiesa, c’è la fioritura“: “Anh em nhìn thấy gì nơi Đức Giáo Hoàng?” Và ngài đã tự trả lời: “Signum contradictionis”, một dấu chỉ của sự chống đối. Giáo Hội ngày hôm nay đang bước đi trong những giây phút bất an. Nhiều người tập luyện việc “tự kiểm thảo”, người ta có thể nói: tập luyện “tự hủy hoại mình.” Người ta đã nghĩ đến một nền thịnh vượng, đến một sự bành trướng hồ hởi của những khái niệm đã được thông qua trong khóa họp khoáng đại của Công Đồng. Và thực sự có tình huống ấy trong Giáo Hội, có sự thịnh vượng.”(15)
Trên thực tế người ta ít tìm hiểu và phân tích một cách toàn diện về thời kỳ khủng hoảng hậu Công Đồng. Người ta thường chỉ phê phán về Công Đồng theo những gì xảy ra tại một địa phương nào đó, nơi họ sống và chứng kiến. Có người coi sự khủng hoảng thời hậu Công Đồng là sự khủng hoảng của hàng Giáo Sĩ, lý do là ngay cả trong Công Đồng bản sắc của họ cũng chỉ được phản ảnh rất ít,(16) dù cho có khá nhiều tài liệu của Công Đồng đề cập tới đời sống, sứ vụ và sự đào tạo Linh Mục. Có người lại phỏng đoán rằng, ngay từ đầu thế kỷ vấn đề khó khăn liên quan đến sự đối kháng giữa thần học và khoa học tự nhiên: thay vì được giải quyết tận gốc các đối kháng ấy, thì lại càng chồng chất thêm. Đó mới chính là nguồn gốc của sự khủng hoảng. Hơn nữa, sự phát triển về chính trị vào tiền bán thế kỷ XX – chiến tranh, sự xung đột, chủ nghĩa độc tài toàn trị, các phong trào dân chủ và độc lập – chắc chắn không thể không có những ảnh hưởng nhất định trên sự khủng hoảng ấy. Đàng khác, chúng ta cũng đừng quên rằng hầu như sau mỗi Công Đồng Chung của Giáo Hội, thì nhiều hay ít đều có những thành phần bất đồng và phản đối, và vì thế đều xảy ra những khủng hoảng. Ví dụ: Quan điểm của Công Đồng đối với thế giới, đối với các giáo phái Kitô giáo ngoài Công Giáo và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, đồng thời sự thay đổi toàn diện phụng vụ trong Giáo Hội, v.v… chắc chắn không thể được mọi thành phần Dân Chúa đồng tình. Dựa theo những kết quả tiêu cực bên ngoài của Công Đồng, người ta lên tiếng chỉ trích Công Đồng. Người thì cho sự áp dụng các quyết định của Công Đồng quá chậm chạp và nửa vời (khuynh hướng cấp tiến); người lại cho sự áp dụng ấy quá nhanh và lệch lạc (khuynh hướng bảo thủ). Trong số các người lên tiếng phê bình chỉ trích Công Đồng, người ta phải kể đến những tên tuổi như Hans Küng, Karl Rahner, Alfredo Ottaviani, Marcel Lefèbvre.
Vào năm 1972 chính ĐTC Phaolô VI, người đã hướng dẫn và kết thúc Công Đồng, đã nhiều lần bày tỏ sự đau buồn và thất vọng của ngài trước thực tại cụ thể của Giáo Hội thời hậu Công Đồng: Với toàn diện các tài liệu quan trọng và cần thiết của Công Đồng Vatican II, đáng lẽ là làm sống động lại và làm phát triển đời sống đức tin như hằng mong đợi, thì lại đưa tới những hiệu quả trái ngược. Trong bài giảng vào ngày 29.6.1972, dịp kỷ niệm 10 năm trên ngai vị Thánh Phêrô của ngài, ĐTC Phaolô VI đã công khai bày tỏ sự thất vọng của ngài trước kết quả thời hậu Công Đồng. Trong một bài tường thuật của ngài, Đức Tổng Giám Mục Agnostino Casaroli, sau trở thành Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh, đã ghi lại nguyên văn lời phát biểu của Đức Thánh Cha: “Da qualche fessura sia entrato il fumo di Satana nel tempio di Dio”: Phải chăng qua một kẽ hở nào đó làn khói Sa-tan đã xâm nhập vào Đền Thờ của Thiên Chúa” để hủy hoại những hoa trái của Công Đồng.(17)
Theo sự xác tín của Philippe Levillain, giáo sư sử học người Pháp mà ông trình bày trong cuốn “Dictionnaire historique de la papaute” về ĐTC Phaolô VI, thì những điều Đức Thánh Cha nói ở đây là muốn ám chỉ phong trào thủ cựu của TGM về hưu Marcel Lefèbvre, được thành lập năm 1970. Phong trào thủ cựu Lefèbvre công khai chống lại Công Đồng đặc biệt về vấn đề tự do tôn giáo và sự canh tân phụng vụ. Đối với ĐTC Phaolô VI phong trào thủ cựu của TGM Lefèbvre là một thách đố đã đè nặng lên tâm tư ngài như sự chống đối Thông điệp cuối cùng của ngài “Humanae Vitae” vậy.
Sự phê bình và chống đối
Qua đó, chúng ta thấy rằng trong Giáo Hội Công Giáo thời hậu Công Đồng đã có những thành phần phê bình và chống đối, nếu không muốn nói là tẩy chay Công Đồng. Trong số đó đứng đầu là những thành phần thủ cựu (Traditionalisten) của TGM nghỉ hưu Marcel Lefèbvre. Họ qui tụ thành một cộng đoàn thủ cựu do TGM Lefèbvre thành lập vào năm 1970 với tên gọi là “Huynh Đoàn Thánh Piô X”, nằm trong lãnh thổ Giáo phận Fribourg/Thụy Sĩ. Họ kết án Công Đồng đã làm xáo trộn và làm sai lạc đức tin Công Giáo cũng như các truyền thống của Giáo Hội. Vì thế, nhóm thủ cựu Lefèbvre đã phủ nhận toàn bộ các quyết định của Công Đồng, nhất là sự canh tân phụng vụ. Họ vẫn giữ nguyên mọi nghi thức dâng Thánh Lễ như trước Công Đồng. Thái độ và hành động chống đối Thánh Công Đồng Chung Vatican II của nhóm thủ cựu này đã đạt tới cao điểm vào năm 1988, khi TGM Lefèbvre tự ý phong chức Giám Mục cho bốn Linh Mục thuộc “Huynh Đoàn Thánh Piô X”. Và hậu quả tất yếu là TGM Lefèbvre cũng như tất cả bốn tân Giám Mục của nhóm bị Tòa Thánh ra vạ dứt phép thông công. Nhưng để hiện thực tinh thần hòa giải và hòa hợp của Công Đồng Vatican II, ngày 24.1.2009 Tòa Thánh cất vạ tuyệt thông cho bốn Giám Mục nói trên. Qua đó, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI muốn mở ra cho nhóm thủ cựu này một con đừờng dẫn đưa họ trở lại với Mẹ Giáo Hội. Nhưng mãi cho đến hôm nay, nhóm thủ cựu Lefèbvre vẫn chưa thuần phục các giáo huấn của Công Đồng Vatican II, nhất là qua các cuộc đối thoại gần đây với Tòa Thánh người ta nhận thấy rằng, họ đã đi đến chỗ tự coi mình là đối tác tay đôi với Giáo Hội, chứ không còn là con cái hay thành phần của Mẹ Giáo Hội nữa. Hiện tại, Bề Trên tổng quyền của nhóm Lefèbvre là GM Bernard Fellay, một trong bốn vị Giám Mục đã được TGM Marcel Lefèvre phong chức trái phép.
Trong khi đó, những thành phần khác lại nhìn Công Đồng theo lăng kính cấp tiến và lên tiếng phê bình Công Đồng và Giáo Hội Công Giáo. Họ cho rằng Giáo Hội chỉ canh tân nửa vời, nghĩa là chỉ thay đổi một số các lễ nghi phụng vụ bên ngoài để bộ mặt của Giáo Hội mang hình thức tân thời, chứ trên nguyên tắc, các tín lý Công Giáo vẫn luôn được gìn giữ và bảo toàn một cách cố chấp. Vào năm 1981, nhà phân tâm và xã hội học Alfred Lorenzer đã phê bình toàn diện chương trình canh tân phụng vụ của Công Đồng Vatican II, vì ông cho rằng sự canh tân ấy chỉ mang tính cách xu thời, chạy theo quan niệm thời đại.(18)
Nói chung, những phê bình chỉ trích trong nội bộ Giáo Hội thường chỉ dựa trên những áp dụng các quyết định của Công Đồng ở một số địa phương lẻ tẻ nào đó, và đồng thời muốn đòi hỏi phải tổ chức một Công Đồng mới, vì họ cho rằng các quyết định của Công Đồng Vatican II đã trở nên lỗi thời. Các chỉ trích cấp tiến chỉ coi Công Đồng như một sự khởi đầu mà thôi với mục đích là nhằm tìm ra một sự hòa điệu với thời đại tân tiến hôm nay, hầu Giáo Hội có thể tiếp tục củng cố được sứ vụ của mình trong việc hướng dẫn tư tưởng con người trong lãnh vực thần học cũng như khoa học. Nhưng trên thực tế, đây là một điều rất ít hy vọng có thể hiện thực được trong một thế giới tục hóa như thế giới hôm nay. Những phê bình cấp tiến cho rằng, một quan niệm dựa vào một tổ chức phẩm trật theo cơ cấu bên ngoài để lèo lái các chính sách một quốc gia và đời sống xã hội hoàn toàn đã lỗi thời. Quyền hạn của hàng Giáo Sĩ chỉ giới hạn trong những lãnh vực thuần túy thuộc thẩm quyền của họ mà thôi, chẳng hạn việc thực hành các nghi thức phụng vụ, trao ban các Bí tích, dâng Thánh Lễ.
Tính cách bó buộc của Công Đồng
Mặc dù Công Đồng Chung Vatican II không đòi hỏi cho mình đặc sủng Vô Ngộ (Infaillibilité), bởi vì Công Đồng không muốn đưa ra những giáo huấn thuộc tín lý, nhưng chỉ thuộc lãnh vực mục vụ mà thôi; tuy nhiên, bốn Hiến chế của Công Đồng – Sacrosanctum Concilium, Lumen Gentium, Dei Verbum, Gaudium et Spes – là những giáo huấn của Giáo Hội mang tính cách bó buộc đối với các tín hữu Công Giáo. Còn các tài liệu khác mang tính cách Sắc lệnh và Tuyên ngôn, chứ không phải Hiến chế, nên thuộc những phạm trù thấp hơn. Trong những „Nota praevia“ của Hiến chế„Lumen Gentium“ và những „ghi chú“ ở dưới bản văn Hiến chế„Gaudium et Spes“, chính Công Đồng đã đưa những hướng dẫn cho việc đón nhận giáo huấn của Công Đồng. Về điểm này lời tuyên bố của Đức Hồng Y Pericle Felici, Tổng thư ký Công Đồng, vào ngày 16.11.1964 trong lần nhóm họp thứ 123 của các Ủy Ban Công Đồng, cũng đã làm sáng tỏ được vấn đề: „Chiếu theo phương pháp và mục đích mục vụ nhằm tới của Công Đồng hiện tại (Vatican II), Công Đồng xác định rằng đối với Giáo Hội thì chỉ được coi là các giáo huấn thuộc đức tin và luân lý (tức những điều buộc phải tin) những gì tự chúng nói lên điều đó một cách rõ ràng. Tuy nhiên, những gì Công Đồng đã trình bày, thì tất cả mọi Kitô hữu buộc phải chấp nhận và tuân giữ như là giáo huấn do Huấn Quyền Tối Thượng của Giáo Hội ban bố.“(19)
_________________________
12. Dignitatis Humanae, số 1.
13. Dignitatis Humanae, số 1.
14. x. Báo Osservatore Romano, số ra ngày 8.12.1968.
15. Insegnamenti, Tập VI (1968), trang 1187-1188.
16. x. Phaolô VI: “Sứ Điệp gửi các Linh Mục” ngày 30.6.1968.
17. x. Insegnamenti Paolo VI, Bd. X (1972), trang 707.
18. x. Alfred Lorenzer: “Das Konzil der Buchhalter. Die Zerstörung
der Sinnlichkeit. Eine Religionskritik.“ Fischer Taschenbuch Verlag.
Frankfurt/Main 1992, trang 11.
19. Lumen Gentium: Text-IntraText CT. Website intratext.com. được
công bố ngày 26.2.2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét