Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Phép rửa trong Chúa Thánh Thần


Phép rửa trong Chúa Thánh Thần
Minh Anh






\


WGPSG -- Đêm nay đã là đêm thứ 40. Thời tiết giá lạnh của vùng rừng núi Tây Nguyên đã quật ngã cô ngay từ những ngày đầu tiên lên nhận công tác mới ở đây, cả một tuần sổ mũi nhức đầu khiến cô không còn thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên nữa. Sau khi đã quen dần với cái lạnh, cô bắt đầu đối diện với nỗi cô đơn lạc lõng trong tâm hồn. Công việc của cô là dạy giáo lý và đi thăm khám cho những bệnh nhân nghèo, neo đơn, nằm liệt giường, nhưng cô không biết tiếng dân tộc nên phải nhờ các em thiếu nhi Thánh Thể thay phiên nhau làm phiên dịch.

Những bệnh nhân của cô thường dùng thuốc lá hái trong rừng theo chỉ dẫn của thầy lang, khi bệnh trở nặng mới chịu uống thuốc tây. Thuyết phục bệnh nhân tuân thủ điều trị đã là điều khó, hiểu được họ và tìm được sự đồng cảm với họ còn khó hơn gấp bội. Họ sống vui vẻ và hài lòng với cuộc sống của mình, không cần nghĩ xa hơn ngày hôm nay, sự có mặt của cô làm họ e dè, ngại bộc lộ hơn.

Những đoàn khách từ thiện khiến cho các xơ bận rộn tiếp đón, nên thời gian đi thăm hỏi người nghèo bị chia sẻ, và người nghèo cũng chờ những phần quà hơn là chờ đến giờ đi học giáo lý. Còn cô luôn phải chống chọi với cái lạnh và tệ hơn là sự thờ ơ của con tim. Cô thật sự thất vọng về mình. Cái hôm xơ bề trên gọi cô đến gặp, đề nghị cô lên giúp cho giáo xứ vùng cao này, cô đã rất tự tin về khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh và mọi loại người của mình nên nhận lời không chút do dự “Con đi đâu cũng được, tùy xơ quyết định”, còn bây giờ, cô tự hỏi “Lửa trong tim mình đi đâu hết rồi? Phải chăng xơ bề trên đã lầm lẫn khi đưa cô đến một nơi có khả năng dập tắt lòng nhiệt thành nơi cô? Đâu là ý Chúa?” Cô trao đổi với cha xứ về một vài vấn đề cô cho là có ý nghĩa, nhưng không tìm được sự đồng cảm. Cửa sổ phòng cô mở ra phía cánh rừng rậm rạp, nhiều đêm khó ngủ, cô nhìn vào khoảng trời mênh mông trước mặt, đối với một nhà văn nào đó thì đây quả là thời điểm sáng tác lý tưởng, riêng cô chỉ thấy nỗi cô đơn sâu thẳm của một con người bỗng dưng bị đẩy vào “sa mạc”, sau khi đã bị tước hết mọi phương tiện sinh tồn, chỉ còn lại một trái tim khô héo, một cuộc sống không mục đích, với vài công việc nhàm chán cùng những con người không cần đến mình.

Càng ngày cô càng nhạy cảm hơn, dễ khóc hơn. Cô gọi điện thoại tâm sự với những người bà con và bạn bè thân thiết, nhưng sự trống rỗng dường như không vơi bớt mà còn ngày một đầy hơn. Cô thấy mình đang xa Chúa, nỗi trống vắng ấy con người không thể lấp đầy. Cô nài nỉ Chúa hãy đưa cô đến nơi khác, nếu không cô sẽ bỏ về nhà mất, cô không thể chịu nổi cuộc sống ở đây nữa. Rồi cô nhận ra từ trước đến giờ cứ tưởng mình đã ở trong Chúa, nhưng thật ra vẫn chỉ loanh quanh bên ngoài Chúa, mọi công việc được chu toàn bằng lý trí, tinh thần trách nhiệm, được nâng đỡ bởi lòng quí trọng của tha nhân và niềm tự hào về sự trong sạch, tỉnh thức không tỳ vết của mình. Lòng bất an, cô chỉ xin Chúa ban cho bình an, ngay lập tức cô được bình an, nhưng chỉ cần ra đi phục vụ là cô dễ dàng trở lại trạng thái cũ. Hoàn cảnh ấy bắt cô phải liên tục cầu nguyện. Cô quyết định giữ thinh lặng như các ẩn sĩ xưa kia trong sa mạc, ăn chay và cầu nguyện cho đến khi tìm được ý Chúa.

Đêm nay đã là đêm thứ 40 cô Chầu Chúa trong thinh lặng, đêm nay cũng là đêm cô phải khấn lại trong lòng mình lời khấn trọn ngày nào. Những lần trước, cô dễ dàng hứa với Chúa, nhưng lần này cô ngập ngừng rất lâu trước lời khấn “vâng lời”, rồi bật khóc thành tiếng. Sức nặng của lời khấn ấy chưa bao giờ cô cảm thấy, nay nó thực đến mức cô khó thở và trở nên yếu ớt như kẻ liệt phải kéo lê chính thân xác mình. Nhưng chính khi cô bật khóc và xin dâng con người yếu ớt của mình cho Chúa, để Ngài tùy ý sử dụng, thì những sợi dây trói thắt chặt trái tim cô bấy lâu được tháo tung ra, cô thấy một dòng máu nóng phun trào trong huyết quản, đem hơi ấm của sự sống thần linh đến từng tế bào cơ thể cô. Cô cảm thấy mình đang yêu và được yêu, người yêu thật gần, chưa bao giờ cô thấy gần như thế. Bình an ngập tràn và trái tim cô lại mở ra với con người. Cô nhận ra Chúa muốn trước khi ra đi phục vụ, cô ở lại dưới chân Người để nghe Người giảng dạy như cô Maria xưa, để được sống thân mật với Chúa mà nhận ra Chúa trong mọi người, và sau khi đã xong việc, cô biết đường trở về ngay với Chúa, không chờ lời tán tụng, khen chê. Điều quan trọng không phải là một công việc được chu toàn mà là trái tim chai đá được thay thế bởi trái tim bằng thịt.

Từ đó cô luôn đi cùng Chúa trên mọi nẻo đường phục vụ, cô đơn tan biến, chỉ có hạnh phúc thênh thang của người đang yêu, những người được cô phục vụ không còn e dè nữa, họ tin tưởng chạy đến với cô trong đêm tối: “Dì ơi, dì giúp con, con bé đang nóng quá!”. Cám ơn Mẹ Bề Trên đã không lầm!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét